tag:blogger.com,1999:blog-21609686652611351792024-03-12T21:05:05.780-07:00Như Huy's blogAnonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.comBlogger162125tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-73947630160419139232013-06-17T06:09:00.004-07:002013-06-17T06:09:57.542-07:00Marina Abramovic, Ulay, Tình-yêu-thương, sự-thật...<br />
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
Marina Abramobvic và Ulay là một đôi nghệ sĩ lừng danh của thế kỉ 20, tuy nhiên, ở đây, tôi không muốn nói về nghệ thuật của họ (các bạn có thể google để biết thêm về họ ở mặt này).</div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<h4 style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 11px; line-height: 19px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: left;">
<span class="photo " style="padding: 0px;"><img alt="" class="photo_img img" src="https://fbcdn-sphotos-f-a.akamaihd.net/hphotos-ak-ash4/1000434_10151689080237264_1532062176_n.jpg" style="border: 0px; margin: 0px; max-width: 620px; padding: 0px;" /><div class="caption" style="border: 0px; font-size: 9px; line-height: 12px; padding: 2px 0px 0px;">
tác phẩm AAA của Marina Abramovic và Ulay (1978)</div>
</span></h4>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
Sau nhiều năm cộng tác nghệ thuật, và là bạn tình của nhau, đến một ngày, cả hai thấy không thể tiếp tục mối quan hệ. Trong một số cuộc phỏng vấn mỗi người đều đổ tại người kia không chung thuỷ. Tuy nhiên, theo tôi, lý do thực cho sự chấm dứt này có lẽ là bởi sau nhiều năm duy trì mối quan hệ vừa là bạn nghệ sĩ (chia sẻ ý tưởng) vừa là bạn tình ( chia sẻ cuộc sống), vừa hiện hữu trong không gian riêng tư ( như một đôi tình nhân ) vừa trong không gian công cộng (như một cặp nghệ sĩ nổi tiếng), cả hai đã quá mệt mỏi. Và thế là họ quyết định chia tay.</div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
Địa điểm diễn ra khoảnh khắc chia tay của họ, được họ lựa chọn, là điểm giữa của vạn lí trường thành tại Trung Hoa. Cả hai quyết định mỗi người sẽ đi bộ từ một đầu của vạn lí trường thành, và sẽ gặp nhau ở điểm giữa của nó. Quãng đường mỗi người phải đi là khoảng 2500 km, và họ sẽ phải đi ròng rã trong khoảng 6 tháng. Ngay thời điểm gặp nhau sau quãng đường dài đó, cả hai sẽ chia tay nhau và không gặp lại.</div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
Chính tại điểm này, khoảnh khắc chia tay của họ đã làm tôi nhớ đếnchương Corinthians 13 trong kinh thánh. Bản diễn dịch của tôi chương này có 1đoạn như sau:<br /><br /><i>“Tình yêu thương không đưa người ta kết bè cánh trong điều sai trái mà giúp họgặp nhau trong sự thật” (</i>1)<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
Key words của đoạn này, theo tôi , là ở cụm <i>“gặp-nhau-trong-sự-thật”</i>.</div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
Vậy thế nào là “gặp-nhau-trong-sự-thật”? và vì sao “gặp-nhau-trong-sự-thật”lại là một mệnh đề tương phải với “kết-bè-cánh-trong-điều-sai-trái”. Câu trả lời ở đây rất đơn giản.</div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
Rất lắm khi, khoảnh khắc “gặp-nhau-trong-sự-thật” lại chính là khoảnh khắc chia ly. Tuy nhiên, sự chia ly này là một sự chia ly trong sángrõ, trong thấu hiểu, trong sự ý thức rằng điều gì đó đã hết, đã chấm dứt, và càng níu kéo, sẽ càng làm cho mọi chuyện bất hạnh thêm ở chỗ sự níu kéo đó sẽ biến việc không-chia-ly trở thành một dạng “kết-bè-cánh-trong-điều-sai-trái” .</div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
Hiểu như vậy, ta sẽ thấy ra ở đây một mệnh đề có vẻ nghịch lí “ GẶP GỠ CHÍNH LÀ CHIA LY”.</div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
Ta có thể hiểu mệnh đề nghịch lí này theo hai cách.</div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
1- Nếu đó là một “gặp -gỡ-trong-sự-thật”, tức trongsự giác ngộ rằng điều gì đó đã hết, đã không còn, đã tàn hủy và không thể cứu vãn, thì sự chia ly tiếp theo sẽ là điều tất yếu. Chính vì lẽ đó, tất cả các bên trong cuộc chia ly, vào chính khoảnh khắc chia ly, sẽ gặp lại, hội ngộ được với sự thật của mình và của nhau. Sự chia ly này, do đó, cũng chính là hội ngộ, và cũng vì thế, sẽ đem lại bình yên. </div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
2- Tuy nhiên, cũng có thể hiểu mệnh đề này theo cách rằng, nếu các bên, trong ý thức về sự chia ly tất yếu, vẫn muốn níu kéo, thìsự níu kéo này, dù cho có thể thành công, cũng lại đã trở thành một sự chia ly:sự chia ly khỏi sự thật, chia ly khỏi bản thân mình để vong thân cho điều gì đókhông phải là mình.<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
Nhìn từ góc độ này, ta sẽ thấy ý nghĩa của việc Marina Abramovic và Ulay, sau khoảng 6 tháng ròng rã đi bộ trên vạn lí trường thành, một biểu tượng của sự ngăn cách, để rồi vào đúng khoảnh khắc gặp nhau ở giữa bức tường thành vĩ đại đó, cả hai quyết định chia tay- là <b>một biểu tượng vĩ đại cho hội ngộ</b>, chứ không hề là một câu chuyện đơn giản về sự chia ly.</div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<h4 style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 11px; line-height: 19px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: left;">
<span class="photo " style="padding: 0px;"><img alt="" class="photo_img img" src="https://fbcdn-sphotos-d-a.akamaihd.net/hphotos-ak-prn1/s720x720/1011320_10151689082177264_1266387583_n.jpg" style="border: 0px; margin: 0px; max-width: 620px; padding: 0px;" /><div class="caption" style="border: 0px; font-size: 9px; line-height: 12px; padding: 2px 0px 0px;">
Vạn lí trường thành 1988</div>
</span></h4>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
*</div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
Sau cuộc “hội ngộ” đó (diễn ra vào năm 1988) khoảng 20 năm, từ tháng Ba đến tháng Năm năm 2010, Marina Abramovic khởi động 1 dự án mới của bà tại bảo tàng nghệ thuật hiện đại New York có tên là “Nghệ sĩ vẫn trong hiện tại”. Suốt 736 giờ và 30 phút, nghệ sĩ ngồi yên trước một chiếc bàn và mời các công chúng lên ngồi đối diện với bà, và nhìn vào bà.</div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
Điều mà Marina Abramovic không ngờ tới chính là việc, từ đận chia ly/hội ngộ trên vạn lý trường thành năm xưa, sau nhiều năm không gặp gỡ và liên lạc, Ulay đã bất ngờ xuất hiện…</div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<h4 style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 11px; line-height: 19px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: left;">
<span class="photo " style="padding: 0px;"><img alt="" class="photo_img img" src="https://fbcdn-sphotos-a-a.akamaihd.net/hphotos-ak-prn2/954801_10151689082867264_986046813_n.jpg" style="border: 0px; margin: 0px; max-width: 620px; padding: 0px;" /><div class="caption" style="border: 0px; font-size: 9px; line-height: 12px; padding: 2px 0px 0px;">
Gặp lại 2010</div>
</span></h4>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<b>Các bạn có thể xem video clip ngắn, song vô cùng súc tích, về toàn bộ câu chuyện này ở dưới đây</b></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<b><br /></b></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<iframe allowfullscreen="" frameborder="0" height="360" src="http://www.youtube.com/embed/gOYIcozkvA0" width="640"></iframe></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
-----</div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px; text-align: left;">
1- có thể đọc toàn văn bản diễn dịch của tôi ở <a href="http://huybeo.blogspot.com/2011/02/ban-dien-dich-cho-ngay-14-2.html">đây:</a></div>
<div>
<br /></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-36745711496711369132013-03-06T18:26:00.002-08:002013-03-06T18:29:18.007-08:00Một cuộc tranh luận giữa Ngải Vị Vị và Paul Gladston<i><span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Hai bài viết dưới đây, một bài do Ngải Vị Vị, nghệ sĩ và nhà tranh đấu Trung Hoa đăng trên <a href="http://www.guardian.co.uk/artanddesign/2012/sep/10/ai-weiwei-china-art-world">guardian</a>, phản đối triển lãm mới đây có tên "Nghệ thuật của sự biến dịch: Những xu hướng mới từ Trung Hoa" được tổ chức tại gallery <span class="Apple-style-span" style="color: #333333; line-height: 19px;"> Hayward, London, và bài thứ hai, do giáo sư </span><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; line-height: 19px;">Paul Gladston, giáo sư đại học </span><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; line-height: 19px;"> Nottingham, London, phản biện lại bài viết của Ngải Vị Vị, đăng trên <a href="http://www.randian-online.com/np_feature/getting-over-ai-weiwei/">radian</a></span></span></i><br />
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; line-height: 19px;"><i><br /></i></span>
<span class="Apple-style-span" style="color: #333333;"><span class="Apple-style-span" style="line-height: 19px;"><i>Đây là một cuộc trao đổi rất hữu ích cho nghệ thuật đương đại Việt Nam nói chung, khi nó đề cập đến các tình huống tương tự với tình huống tồn tại của nghệ thuật đương đại Việt Nam, ví dụ tình huống của mối quan hệ giữa chính trị với nghệ thuật, tình huống của sự khác biệt văn cảnh giữa người xem phương Tây với các tác phẩm nghệ thuật đương đại địa phương, với bản chất luỵ văn cảnh, v.v. Vì lẽ đó, tôi (Như Huy) đã dịch cả hai bài viết này với mục đích tư liệu tham khảo. Các trích dẫn hay đăng lại bản dịch này cần thiết phải ghi rõ nguồn và tác giả bản dịch là Như Huy</i></span></span></span><br />
<span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: x-small;"><span class="Apple-style-span" style="line-height: 19px;"><br /></span></span>
<span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: x-small;"><span class="Apple-style-span" style="line-height: 19px;">----</span></span><br />
<span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: x-small;"><span class="Apple-style-span" style="line-height: 19px;"><br /></span></span>
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><span class="Apple-style-span" style="line-height: 19px;"><span class="Apple-style-span" style="color: #333333;"><b>1-</b></span></span><span class="Apple-style-span" style="color: #1c2a47; font-weight: bold; line-height: 20px;">Ngải Vị Vị: Giới nghệ thuật Trung Hoa không hề hiện hữu</span></span><br />
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><span class="Apple-style-span" style="color: #1c2a47;"><span class="Apple-style-span" style="line-height: 20px;"><b><br /></b></span></span>
<span class="Apple-style-span" style="color: #1c2a47; font-weight: bold; line-height: 20px;"><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-weight: normal; line-height: 19px;"></span></span></span><br />
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Việc gì phải đi tổ chức cả một triển lãm có cái tên là : <em>Nghệ thuật của sự biến dịch: Các hướng đi mới của nghệ thuật Trung Hoa</em>? Tôi nghĩ không có gì đáng để nói về các hướng đi mới khi bàn đến nghệ thuật Trung Hoa- nơi thậm chí còn không có các hướng đi cũ. Nghệ thuật Trung Hoa chưa hề có bất kì định hướng rõ ràng nào. Đúng là trong một triển lãm khai mạc tại <em>Hayward Gallery</em> ở London tuần trước có các nghệ sĩ mạnh mẽ hơn hẳn các nghệ sĩ khác trong nỗ lực chống lại các hạn chế do chính phủ áp đặt. Song điều này không hề thay đổi sự thật rằng triển lãm ấy cũng lại chỉ, thêm một lần nữa, là một nỗ lực nhằm chào hàng với công chúng phương Tây cái gọi là “nghệ thuật Trung Hoa đương đại”. Làm thế nào bạn có thể có một triển lãm về “nghệ thuật Trung Hoa đương đại” mà ở đó không có một chủ đề đương đại cấp thiết nào của đất nước được đề cập tới?</span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Tôi rất biết tác phẩm của hầu hết các nghệ sĩ trong triển lãm. Dĩ nhiên các tác phẩm này của Trung Hoa, song, nhìn chung, triển lãm hoàn toàn thiếu vắng cái nhìn phê phán. Trông nó giống với một hàng ăn tàu trong khu Hoa kiều, nơi bán các món ăn quen thuộc, như Gà Kung Pao, hay sườn heo chua ngọt. Mọi người sẽ ăn, và nói, ok, đây là đồ ăn Hoa. Tuy nhiên những thứ đó chỉ đơn giản là các món ăn dễ bán, và chỉ cho ta thấy rất ít về trải nghiệm thực sự của đời sống Trung Hoa ngày nay.</span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Sự áp đặt toàn bộ của nhà nước lên nghệ thuật và văn hoá đã cấm ngặt quyền tự do ngôn luận trong đất nước. Suốt hơn 60 năm qua, bất kì ai có quan điểm trái với đường lối đều bị đàn áp. Nghệ thuật Trung Hoa chỉ đơn thuần là một thương phẩm: nó từ khước bất kì sự dấn thân có ý nghĩa nào. Nó không hướng đến bất kì điều gì ngoài phạm vi này. Mục tiêu duy nhất của nó chỉ là làm mãn nhãn người xem bằng sự mập mờ của nó</span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<strong><span class="photo " style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;"><img alt="" class="photo_img img" src="https://fbcdn-sphotos-a-a.akamaihd.net/hphotos-ak-ash4/399090_10151136917147264_620328366_n.jpg" style="border-bottom-width: 0px; border-color: initial; border-left-width: 0px; border-right-width: 0px; border-style: initial; border-top-width: 0px; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px; max-width: 620px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;" /></span></strong></div>
<div class="caption">
<strong><span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">tác phẩm "Ngủ" [sleeping] (2004/2012) của Ying Duan, tại triển lãm "Nghệ thuật của sự biến dịch: Các hướng đi mới từ Trung Hoa". Ảnh: Felix Clay</span></strong></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
</div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Giới nghệ thuật Trung Hoa không hiện hữu. Trong một xã hội hạn chế tự do cá nhân và vi phạm nhân quyền, bất kì điều gì tự gọi mình là sáng tạo hay độc lập đều chỉ là man trá. Với một xã hội toàn trị, việc sáng tạo điều gì đó bằng đam mê và trí tưởng tượng là bất khả.</span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Trung Hoa là một quốc gia với một lịch sử phong nhiêu. Sự bùng nổ kinh tế của nó đã khơi nên cơn thèm thuồng và sự tò mò từ khắp thế giới với nền nghệ thuật và văn hoá Trung Hoa, và điều này vẫn đang còn tiếp tục. Tuy nhiên, tôi có thể nói với mọi người rằng, đây chỉ là một màn kịch thiếu vắng diễn viên. Chính phủ Trung Hoa tiêu hàng tỉ Đô la cho các dự án “quyền lực ngầm” (soft power initiatives) tìm mọi cách để cổ vũ và hỗ trợ sự trao đổi văn hoá với phương Tây, nhằm mục đích thể hiện đất nước như một quốc gia văn minh. Những động thái diễn trò này không khác gì với chính sách ngoại giao bóng bàn của chủ tịch Mao, từng được thực hiện hồi những năm 70s của thế kỉ trước: Các vận động viên bóng bàn Mỹ được mời sang Trung Hoa để chơi các trận giao hữu và qua đó tạo điều kiện cho một mối quan hệ chính trị. Theo cách này, Các chú gấu Panda khổng lồ cũng đã được gửi tặng cho rất nhiều quốc gia nhằm tăng cường mối quan hệ ngoại giao</span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<strong><span class="photo " style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;"><img alt="" class="photo_img img" src="https://fbcdn-sphotos-h-a.akamaihd.net/hphotos-ak-ash4/381185_10151136913922264_854818563_n.jpg" style="border-bottom-width: 0px; border-color: initial; border-left-width: 0px; border-right-width: 0px; border-style: initial; border-top-width: 0px; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px; max-width: 620px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;" /></span></strong></div>
<div class="caption">
<strong><span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Hình chi tiết từ tác phẩm của Peng Yu và Sun Yuan, " Tôi đã không chú ý là tôi đang làm gì" [I Didn't Notice What I am Doing] (2012) tại triển lãm "Nghệ thuật của sự biến dịch: Các hướng đi mới từ Trung Hoa". Ảnh: Felix Clay</span></strong></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
</div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Năm ngoái, chúng ta đã thấy Trung Hoa đưa quảng cáo đậm chất tuyên truyền của mình vào giữa quảng trường Thời đại ở New York. Trong một màn quảng cáo mà tờ quốc báo Xinhua miêu tả là một “chiến dịch ngoại giao công cộng”, các màn hình lớn chiếu các video tôn vinh ngôi sao phim hành động Jacki Chan, vận động viên bóng rổ Yao Ming, phi hành gia Yang Liwei, và hai dương cầm thủ Lang Lang và Li Yundi. Đồng thời, viện Khổng tử, nơi cổ vũ và tuyên truyền về văn hoá Trung Hoa, cũng mở chi nhánh khắp thế giới, cùng lúc đó là các chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới của những Đoàn nhào lộn theo phong cách truyền thống Trung Hoa. Với tôi, những màn diễn kiểu này là một sự lăng mạ trí tuệ của con người và là một sự nhạo báng khái niệm văn hoá- tức coi nó như một công cụ tuyên truyền mà ở đó, kĩ năng được khoe khoang mà không kèm theo bản chất, tài nghệ được trưng bày mà thiếu vắng nội dung.</span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Mặc dù nghệ thuật Trung Hoa bị ảnh hưởng nặng nề từ văn hoá phương Tây, song cùng lúc, nó lại từ khước các giá trị nhân bản căn cốt là bệ đỡ cho nền văn hoá ấy. Đảng cộng sản Trung Hoa tuyên bố về một chủ nghĩa xã hội mang đặc tính Trung Hoa, song không một ai, kể cả người Trung Hoa, hiểu đó là cái chi chi. Với tất cả những điều này, cộng thêm sự thiếu ý thức về bản sắc cá nhân của các nghệ sĩ, không có lý do gì để mong đợi một triển lãm nghệ thuật Trung Hoa tại phương Tây chỉ trích hệ thống một cách hiệu quả. Song bất kỳ triển lãm nào được giám tuyển mà thiếu đi sự tôn vinh nỗ lực tranh đấu của con người, thiếu đi sự quan tâm tới nhu cầu tự biểu lộ một cách trung chính của nghệ sĩ, thì triển lãm ấy sẽ không tránh khỏi việc đưa ra một kết luận sai lầm. Bất kì điều gì tự gọi bản thân là một sự trao đổi văn hoá đều sẽ chỉ là giả tạo nếu nó thiếu đi một nội dung phê phán. Những gì cần được thấy là các thảo luận thẳng thừng, tức một bệ đỡ cho các luận điểm khác nhau. Nghệ thuật cần phải hiến mình cho điều gì đó. </span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<span class="Apple-style-span" style="color: #1c2a47; font-family: Times, 'Times New Roman', serif; font-weight: bold; line-height: 20px;">2-Bỏ Ngải Vị Vị qua bên</span><br />
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><span class="Apple-style-span" style="color: #1c2a47;"><span class="Apple-style-span" style="line-height: 20px;"><b><br /></b></span></span>
<span class="Apple-style-span" style="color: #333333; line-height: 19px;"></span></span><br />
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<em><span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Một phản ứng lại với bình luận của Ngải Vị Vị về triển lãm "Nghệ thuật của sự biến dịch: các xu hướng mới từ Trung Hoa"</span></em></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Triển lãm mới nhất của Gallery Hayward <em>“Nghệ thuật của sự biến dịch: các xu hướng mới từ Trung Hoa" </em>vừa đây đã đón nhận rất nhiều phản ứng từ quốc tế qua những bài viết hầu hết là tích cực, tức những gì trong mọi trường hợp đều phản ánh cả sự thoả mãn lẫn phấn khích. Trong khi một số người viết cho thấy sự không chắc chắn lắm về ý nghĩa chính xác của một số tác phẩm, hầu hết đều chia sẻ quan điểm rằng triển lãm đã trình bày được một tuệ kiến về mối quan hệ giữa nghệ thuật đương đại và xã hội ở Trung Hoa, cụ thể hơn, về sự dấn thân ở góc độ phê phán của nghệ thuật Trung Hoa đương đại nhắm vào chính quyền. Sự kết hợp này của các ấn tượng khác nhau có lẽ không phải là điều gì bất ngờ. Bất chấp sự phủ sóng truyền thông hầu như mỗi ngày, Trung Hoa vẫn là điều gì đó xa vời tại Anh. Hậu quả là, hầu hết những người viết ở Anh đã thiếu đi tri thức chi tiết cụ thể (tri thức về văn cảnh Trung Hoa-ND) cần phải có để có thể tiếp cận với nghệ thật đương đại Trung Hoa. Cùng lúc ấy, về mặt nghệ thuật, người xem lại bị thách thức trước một dạng nghệ thuật mà ý nghĩa của nó họ chỉ nắm bắt được phần nào, song chính dạng nghệ thuật ấy lại đang dấn thân một cánh tường minh vào một mối quan hệ phức tạp với những thay đổi hiện đang diễn ra tại Trung Hoa đương đại.</span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Tuy nhiên có một người viết đã không hề có ấn tượng gì về triển lãm này. Trong các bình luận của ông cho đăng trên tạp chí Guardian vào ngày mùng 9 tháng 9 năm 2012, nghệ sĩ và nhà đấu tranh Ngải Vị Vị đã mở cả một cuộc tấn công gay gắt nhắm vào những nhà tổ chức triển lãm<em>“Nghệ thuật của sự biến dịch", </em>buộc tội họ về việc đã trình bày sai về nghệ thuật đương đại ở Trung Hoa. Theo quan điểm của Ngải, triển lãm đã thất bại trong việc định vị <em>“các chủ đề đương đại cấp bách nhất”, </em>và cụ thể là thực tế rằng ở Trung Hoa hiện nay <em>“không có chỗ cho sự tự do ngôn luận”. </em>Nghệ thuật đương đại ở Trung Hoa, Ngải lý luận, chỉ là một <em>“sản phẩm đơn thuần”,</em>tức điều <em>“từ chối bất kỳ một sự dấn thân có ý nghĩa nào” </em>và mục đích duy nhất của nó khi được đem ra ngoài Trung Hoa, bởi vậy, chỉ để <em>“làm mãn nhãn người xem bằng sự mập mờ của nó”.</em>Không có vẻ gì là Ngải đã thực sự đến xem triển lãm hay đọc vựng tập của nó bởi hiện ông vẫn bị cấm cố trong ngôi nhà của mình tại Bắc Kinh<em>.</em></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Trong những năm gần đây, sự hiện diện của Ngải Vị Vị đã trở nên quen thuộc nơi không gian truyền thông nước Anh. Những bài diễn thuyết huênh hoang tràng giang đại hải, những cú tấn công công khai và gay gắt nhắm vào chế độ quan liêu hành chính, những triển lãm và tác phẩm gây sốt trên mọi phương tiện truyền thông, một phóng sự dài kỳ của BBC do Alan Yentob thực hiện về việc Ngải bị cảnh sát hành hung và sau đó được đưa vào bệnh viện trong tình trạng thập tử nhất sinh, việc Ngải bị bắt và giam giữ mà không hề được đưa ra xét xử, sự truy tố Ngải về tội trốn thuế, sự lạc quyên của bè bạn và những người giấu tên nhằm giúp trả tiền thuế cho Ngải, và mới gần đây, một chân dung tự hoạ có tính điện ảnh của nghệ sĩ như một con người không thoả hiệp và không hối hận đã bảo vệ cho vị trí của Ngải, không chỉ như một người bình luận thích hợp nhất về chủ đề nghệ thuật đương đại ở Trung Hoa, mà còn như hiện thân huy hoàng cho nỗ lực chống lại chủ nghĩa toàn trị tại Trung Hoa. Không một phóng sự trên đài, trên truyền hình, hay trên mặt báo về nghệ thuật đương đại Trung Hoa nào sẽ được coi là đầy đủ nếu không có ít ra là một tham chiếu loáng thoáng về Ngải, trong vai trò nghệ sĩ Trung Hoa nổi tiếng nhất và, có lẽ quan trọng nhất hiện còn đang sống. Với truyền thông Anh, ông có vai trò như thể phiên bản, nhìn từ góc độ văn hoá nghệ thuật, của Aung San Suu Kyi; Ông như thể một ngọn hải đăng đối lập, tự đốt cháy mình, tuy giờ đây buộc phải im lặng phần nào do bị nhà cầm quyền cấm cố tại gia, vẫn cuồng nộ chống lại những bất công do chính quyền Trung Hoa áp đặt xuống ông và những người khác.</span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Bất chấp các cải cách kinh tế và xã hội theo hướng tự do hơn trong ba thập kỉ gần đây, Trung Hoa vẫn là một quốc gia có một nền chính trị luôn tàn bạo đến nghẹt thở. Những thách thức công khai nhắm vào quyền lực của đảng công sản cầm quyền cũng như bất kỳ điều gì có thể nhìn nhận là sẽ làm xói mòn tính toàn vẹn của nhà nước-quốc gia Trung Hoa, tức những thách thức và mối nguy từng hiện hữu suốt dọc thời kỳ Mao-ít, đều đơn giản là không được cho phép. Hậu quả cho những sự vi phạm - sự quấy rối cá nhân và gia đình, sự giam cầm không có toà án xét xử, sự trục xuất, và thậm chí cái chết- là nhất quán trong việc hoàn toàn cụ thể và độc ác. Tuy nhiên với sự xuất hiện nhanh chóng và ngày càng rộng rãi của tính hiện đại hậu chủ nghĩa xã hội tại Trung Hoa từ thập kỷ 70s của thế kỷ trước, các hạn chế về tự do hành động và ngôn luận đã trở nên linh hoạt và mờ nhoà hơn. Kết quả là, sự tự giám sát tất cả những gì có thể bị nhìn thấy, sự tự ra kỷ luật, sự phô diễn ngoạn mục quyền lực quốc gia và sự giàu có vật chất đang tăng nhanh, tất cả những điều ấy giờ đây trở thành những chiến luỹ tổng hợp trước trật tự xã hội chính trị phổ biến khắp Trung Hoa. Quyền lực quốc gia trực tiếp chỉ được cho là cần thiết khi giáng xuống các sự phản kháng cực đoan hoặc có tính lặp đi lặp lại. Ngải tiếp tục nhắc nhở chúng ta về các thực tế đáng chê trách và xấu xa triệt để này không chỉ qua rất nhiều hành động khác nhau của ông khi công khai chống lại chính quyền, mà còn qua chính tình trạng thực tế của bản thân ông, khi bị cấm cố trong ngôi nhà của mình. Sự quấy nhiễu chính quyền không ngưng nghỉ và sự không khuất phục của ông trước các hăm doạ đã dẫn đến kết quả là phản ứng đầy nguy hiểm và đe doạ song vô hình từ phía chính quyền mà viễn cảnh đơn thuần của phản ứng ấy chắc chắn sẽ làm hầu như tất cả chúng ta khiếp sợ trong sự câm lặng tuyệt vọng mãi mãi. Với sự thách thức trực diện của mình nhắm vào quyền lực, Ngải đã và đang xứng đáng với sự chú ý và ngưỡng mộ của chúng ta.</span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Mặc dầu vậy, có những mối nguy hiểm nghiêm trọng trong việc tôn vinh Ngải như thể người đại diện/kẻ trung giới duy nhất cho sự kháng cự của giới nghệ thuật đối với chính quyền Trung Hoa. Trong khi lập trường đối đầu thẳng thừng và thường xuyên có tính khoa trương của ông luôn dễ dàng được chia sẻ trong văn cảnh tự do dân chủ phương Tây, nơi vẫn còn hiện diện dai dẳng ý niệm lãng mạn về những người hùng bất đồng chính trị bất chấp hiểm nguy khi đối mặt với quyền lực độc tôn, chính nó lại hoàn toàn không hề đại diện cho lập trường phê phán của hầu hết các nghệ sĩ Trung Hoa khác. Có lẽ Ngải đã tự định vị bản thân một cách đầy ngưỡng mộ theo mẫu các ý thể kiểu phương Tây và Khai Minh về sự tự do và cởi mở, song sự thẳng thừng nghiệt ngã và tính thô sơ đến mức diễn nôm trong cách ông phê phán chính quyền đã ngăn cản một cách hiệu quả kiểu thảo luận sâu sắc hơn về nghệ thuật đương đại trong phạm vi Trung Hoa cũng như về mạng lưới phức tạp nơi các luồng lực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội có tính văn cảnh hoá, tức những gì đang bao quanh và chi phối sự sản tạo và tiếp nhận nghệ thuật đương đại tại Trung Hoa.</span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Dĩ nhiên là tại Trung Hoa có một số lượng lớn các nghệ sĩ đương đại đã và đang tìm cách kết hợp các ảnh hưởng văn hoá từ cả Trung Hoa lẫn phi-Trung Hoa với nhau theo lối đơn giản chỉ với mục tiêu tìm kiếm thành công về thương mại. Cùng lúc ấy, cũng có một số rất ít nghệ sĩ, giống như Ngải, sử dụng một lối tiếp cận có tính thù địch nhắm vào chính quyền. Tuy nhiên, cũng vẫn có vô số nghệ sĩ khác tìm cách phát triển các ngôn ngữ thị giác được cấu tạo một cách đầy trí tuệ, có khả năng duy trì những hình thức tư duy và phát biểu phê phán theo một lối tinh tế hơn nhiều. Theo truyền thống Khổng-Lão của Trung Hoa, có một cách hiểu quen thuộc rằng nghệ thuật sở hữu tiềm năng đi xa hơn bề mặt hình thức đơn thuần của tác phẩm để trình ra được các bình luận xã hội quan trọng cũng như các sự Khai Minh về tinh thần. Đi theo truyền thống này, các sự phê phán thông qua nghệ thuật nhắm vào chính quyền ở Trung Hoa luôn có xu hướng hàm ngụ và thi vị, cũng như luôn được khai triển thông qua các hình thức đậm tính biểu tượng của sự không can dự. Sự thiếu thốn các phê phán thẳng thừng nhắm vào chính quyền này không hoàn toàn là vấn đề của thuyết hành dụng. Nó còn được coi là dấu hiệu của văn minh. Với những nghệ sĩ Trung Hoa văn minh, những người muốn đứng cao hơn sự tàn ác của quyền lực, các hình thức phê phán hàm ngụ và thi vị không chỉ giúp tránh khỏi những kiểu định nghĩa dễ dãi, mà còn đươc cho là sở hữu một xung lực của sự tự khởi, thanh thoát, phù hợp với những cách thế của chính Thiên nhiên. Một ẩn dụ về việc này đã được viết trong cuốn sách kinh điển<em> Đạo Đức Kinh </em>của Lão Tử, về việc "<em>vật mềm thắng vật cứng [nước chảy đá mòn]"</em></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<strong><span class="photo " style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;"><img alt="" class="photo_img img" src="https://fbcdn-sphotos-h-a.akamaihd.net/hphotos-ak-ash3/69274_10151504626702264_1524942335_n.jpg" style="border-bottom-width: 0px; border-color: initial; border-left-width: 0px; border-right-width: 0px; border-style: initial; border-top-width: 0px; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px; max-width: 620px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;" /></span></strong></div>
<div class="caption">
<strong><span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Tác phẩm của Liang Shaoji</span></strong></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
</div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><em>“Nghệ thuật của sự biến dịch”</em> là một triển lãm quan trọng và có tính mở đường trong việc cho thấy một phạm vi phức tạp các phản ứng phê phán đối với những sự thay đổi về quyền lực và xã hội trong nước CHND Trung Hoa. Trong khi một số tác phẩm của triển lãm sử dụng các khía cạnh thuộc tư tưởng và thực hành văn hoá truyền thống Trung Hoa như một sự thoát ly có tính kháng cự khỏi nền chính trị và đời sống Trung Hoa dòng chính, một số khác lại trình bày các phản ứng được mã hoá đơn giản và dễ đọc nhắm vào những sự phi lý đến bi thương của một xã hội vẫn bị tình trạng quan liêu, tham nhũng và sự thiếu minh bạch đến mức nghiệt ngã chi phối. Ví dụ của cách tiếp cận đầu tiên bao gồm cách Liang Shaoji sử dụng những redymades như các giá đỡ để đặt lên đó những tấm lụa do chính những con tằm sống nhả tơ mà thành (1). Một trong số cách đọc tác phẩm này cho thấy nó phản ánh mạnh mẽ mối quan tâm của nghệ sĩ đối với tính tương đối kiểu Lão Trang và Einstein- là một sự tương phản rõ rệt đối với ý niệm về sự tiến bộ khoa học duy lý, tức những gì được đảng cộng sản Trung Hoa cổ vũ. Ví dụ của lối tiếp cận sau là các tác phẩm video và sắp đặt của Sun Yuan và Peng Yu, Gu Dexin và <a href="http://huybeo.blogspot.com/2010/12/tac-pham-video-trich-oan-cua-nghe-sy.html">Wang Jianwei</a> tức các tác phẩm trình ra những hàm ngụ thường xuyên phức tạp và có tính bóng gió sâu xa về các hiệu ứng tổng hợp và những mâu thuẫn tiềm tàng khi Trung Hoa tiến vào tính hiện đại toàn cầu song cùng lúc vẫn sở hữu các tàn dư dai dẳng có tính văn cảnh hoá của quyền lưc chuyên chế</span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<strong><span class="photo " style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;"><img alt="" class="photo_img img" src="https://fbcdn-sphotos-b-a.akamaihd.net/hphotos-ak-prn1/s720x720/625419_10151504629882264_398207600_n.jpg" style="border-bottom-width: 0px; border-color: initial; border-left-width: 0px; border-right-width: 0px; border-style: initial; border-top-width: 0px; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px; max-width: 620px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;" /></span></strong></div>
<div class="caption">
<strong><span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Tác phẩm của Liang Shaoji</span></strong></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
</div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Nhìn từ một quan giác hậu Khai Minh kiểu phương Tây, tất cả những điều này cho thấy một sự yếu đuối đến mức khó tin, một kiểu đồng loã (với chính quyền), hay có lẽ, một dang tự định hướng. Tuy nhiên, Trung Hoa không phải là phương Tây, và ở đó có lẽ không có nhiều triển vọng cho một sự chuyển hướng trong tương lai gần để có thể xuất hiện được kiểu tính công khai hay tính phê phán mà giờ đây đã quá quen thuộc trong văn cảnh dân chủ tự do phương Tây. Ấy thế nhưng, với những ai có đủ sự kiên nhẫn để quan sát, chắc chắn họ sẽ thấy ra các hình thức văn cảnh hoá của sự kháng cự, tức những gì, trong khi dễ dàng bị những cặp mắt phương Tây bỏ qua, vẫn tiếp tục, bằng phương cách lắt léo, và có lẽ, theo thời gian, đã và đang tạo được hiệu quả lên giới cầm quyền Trung Hoa.</span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">Ngải Vị Vị đã đúng khi nhắc chúng ta phải luôn chú ý tới tình trạng bất công đến mức bệnh hoạn do quyền lực toàn trị tạo ra ở nước Trung Hoa, ông cũng chính xác khi quở trách những công chúng phương Tây bởi việc họ không có khả năng nhìn thấy quá khứ, tức những gì, với họ chỉ mang dáng vẻ mập mờ và giúp họ thoả mãn kiểu hương xa về nghệ thuật đương đại Trung Hoa. Tuy nhiên, điều không thuyết phục ở đây chính là quan điểm có tính quy giản tuyệt đối của Ngải về các khả thể phê phán khác nhau của nghệ thuật đương đại Trung Hoa. Qua việc khăng khăng đòi hỏi địa vi duy nhất cho lối tiếp cận phê phán kiểu đối lập một cách khoa trương nhắm vào quyền lực, và bởi giờ đây chúng ta đã quá biết về lối tiếp cận này, ta thấy chính Ngải chứ không phải Hayward, mới là người không thích hợp với vai trò đại diện cho giới nghệ thuật đương đại Trung Hoa. Ai đó cũng có thể bình luận thêm vào rằng, Ngải đang lãng mạn hoá các điều kiện cho tính phê phán kiểu phương Tây. </span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><br /></span></div>
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">------</span></div>
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;"><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; line-height: 19px;"><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; line-height: 19px;"><br /></span>
*<strong>Tác giả Paul Gladston là giáo sư trường đại học Nottingham ở nước Anh</strong> </span><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; line-height: 19px;"></span></span><br />
<div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: Times, 'Times New Roman', serif; line-height: 19px;"><br /></span></div>
<span class="Apple-style-span" style="color: #333333; line-height: 19px;"><span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">
</span><div style="line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: Times, 'Times New Roman', serif;">1<em>-</em>Tác phẩm của Liang Shaoji được Rachel Spence mô tả như sau: <em>“…sắp đặt của ông được trưng bày trong một phòng tối, mà ở đó có đặt những rổ đựng những con sâu tằm được phủ bằng những lá dâu tằm. Hành vi của những con sâu tằm này, bò sột soạt, rỉa lá, và kéo kén trong quá trình hoá bướm đã được thu lại trực tiếp và phát ra qua tai nghe. Trong một phòng khác, những tấm màng mỏng bằng tơ tằm thô bọc những chiếc kén vào cùng với các đồ vật từ những chiếc giá đỡ làm bằng dây đồng tới những dây xích treo từ trần và những cửa sổ có chấn song vông bằng gỗ kiểu Trung Hoa. Tất cả âm thanh, hình dáng và sự đan kết của tác phẩm đều biểu lộ một tính phổ quát siêu vượt khỏi thời gian và không gian. Trong một khoảnh khắc, chúng ta dường như thuộc về chính thế giới của những con sâu tằm, mà ở đó, quá khứ, hiện tại, tương lai là không thể chia tách...</em></span></div>
</span><span class="Apple-style-span" style="color: #1c2a47; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 16px; font-weight: bold; line-height: 20px;"><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-size: 13px; font-weight: normal; line-height: 19px;"><div style="font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
</span></span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-15718720591593460562013-02-03T23:34:00.004-08:002013-02-03T23:34:44.514-08:00Ca khúc "Dịu Dàng"<span class="Apple-style-span" style="font-family: arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 13px;"></span><br />
<h1 id="watch-headline-title" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-color: transparent; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border-bottom-width: 0px; border-color: initial; border-left-width: 0px; border-right-width: 0px; border-style: initial; border-top-width: 0px; font-size: 19px; line-height: normal; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px; overflow-x: hidden; overflow-y: hidden; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px; text-overflow: ellipsis; white-space: nowrap; word-wrap: normal;">
<span class="watch-title yt-uix-expander-head" dir="ltr" style="-webkit-user-select: auto; background-attachment: initial; background-clip: initial; background-color: transparent; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border-bottom-width: 0px; border-color: initial; border-left-width: 0px; border-right-width: 0px; border-style: initial; border-top-width: 0px; color: black; cursor: auto; font-size: 19px; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;" title="Dịu Dàng"><br /></span></h1>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<iframe allowfullscreen='allowfullscreen' webkitallowfullscreen='webkitallowfullscreen' mozallowfullscreen='mozallowfullscreen' width='320' height='266' src='https://www.youtube.com/embed/a3tSj0Dh2cc?feature=player_embedded' frameborder='0'></iframe></div>
<h1 id="watch-headline-title" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-color: transparent; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border-bottom-width: 0px; border-color: initial; border-left-width: 0px; border-right-width: 0px; border-style: initial; border-top-width: 0px; font-size: 19px; line-height: normal; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px; overflow-x: hidden; overflow-y: hidden; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px; text-overflow: ellipsis; white-space: nowrap; word-wrap: normal;">
<br /></h1>
<h1 id="watch-headline-title" style="background-attachment: initial; background-clip: initial; background-color: transparent; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border-bottom-width: 0px; border-color: initial; border-left-width: 0px; border-right-width: 0px; border-style: initial; border-top-width: 0px; font-size: 19px; line-height: normal; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px; overflow-x: hidden; overflow-y: hidden; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px; text-overflow: ellipsis; white-space: nowrap; word-wrap: normal;">
<span class="watch-title yt-uix-expander-head" dir="ltr" style="-webkit-user-select: auto; background-attachment: initial; background-clip: initial; background-color: transparent; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border-bottom-width: 0px; border-color: initial; border-left-width: 0px; border-right-width: 0px; border-style: initial; border-top-width: 0px; color: black; cursor: auto; font-size: 19px; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;" title="Dịu Dàng">Dịu Dàng</span></h1>
<div>
<span class="watch-title yt-uix-expander-head" dir="ltr" style="-webkit-user-select: auto; background-attachment: initial; background-clip: initial; background-color: transparent; background-image: initial; background-origin: initial; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border-bottom-width: 0px; border-color: initial; border-left-width: 0px; border-right-width: 0px; border-style: initial; border-top-width: 0px; color: black; cursor: auto; font-size: 19px; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;" title="Dịu Dàng"><br /></span></div>
<i><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px;"><b>Nhạc và lời:</b> Như Huy</span><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px;"><br /></span><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px;"><b>Người hát:</b> Như Huy</span><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px;"><br /></span><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px;"><b>Hoà âm:</b> nhạc sĩ Đinh lăng</span><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px;"><br /></span><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px;"><b>Piano:</b> Trần Việt Anh</span><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px;"><br /></span><span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px;"><b>Violin:</b> Ngọc Tú</span></i><br />
<span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px;"><br /></span>
<span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px;"><br /></span>
<span class="Apple-style-span" style="color: #333333; font-family: arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px;">Nơi anh ngồi đây phía sau căn phòng màu trắng<br />Cơn giông nào đem bóng đêm mây mù tràn qua<br />Anh nghe tình yêu thoảng trong những hơi gió lạnh<br />Và một ngôi sao lên trong mắt anh lóng lánh<br />Lóng lánh<br />Lóng lánh một ngôi sao ấy<br />Lóng lánh<br />Lóng lánh một ngôi sao ấy giữa mắt anh,<br />Giữa mắt anh em có thấy<br /><br />Thoáng nụ cười em bình yên<br />Sáng nhẹ nhàng trong màn đêm<br />Nhắc lời tình yêu lặng im<br />Sáng dịu dàng như tình em<br /><br />Thoáng nụ cười em bình yên<br />Sáng nhẹ nhàng trong màn đêm<br />Nhắc lời tình yêu lặng im<br />Sáng dịu dàng như tình em<br /><br />Nơi anh ngồi đây bóng đêm đã tràn mọi lối<br />Nơi căn phòng xa sáng lên ánh đèn lẻ loi<br />Anh nghe ngọc lan thoảng trong gió khuya không lời<br />Và một ngôi sao lên trong mắt anh lóng lánh<br />Lóng lánh<br />Lóng lánh một ngôi sao ấy<br />Lóng lánh<br />Lóng lánh một ngôi sao ấy giữa mắt anh<br />Giữa mắt anh em có thấy<br /><br />Thoáng nụ cười em bình yên<br />Sáng nhẹ nhàng trong màn đêm<br />Nhắc lời tình yêu lặng im<br />Sáng dịu dàng như tình em<br /><br />Thoáng nụ cười em bình yên<br />Sáng nhẹ nhàng trong màn đêm<br />Nhắc lời tình yêu lặng im<br />Sáng dịu dàng như tình em<br /><br /><br /><br /><b>©Như Huy giữ bản quyền toàn bộ ca khúc và bản hoà âm</b></span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-7968719626095068362013-01-25T06:18:00.003-08:002013-01-25T06:18:54.606-08:00 Thơ Oscar Wilde (Như Huy dịch) | Ai Mà Chẳng Giết Đi Điều Họ Thương<br />
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Ai mà chẳng giết đi điều họ thương</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Chúng ta phải</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
truyền đời chân lí ấy</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Kẻ thì giết bằng cái nhìn đắng cay</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Kẻ thì giết bằng những lời bóng bẩy</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Kẻ lành giết bằng nụ hôn</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Kẻ dữ giết bằng giáo gươm.</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Có kẻ giết tình yêu thương khi đang còn trẻ</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Có kẻ giết tình yêu thương khi đã già nua</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Có kẻ lấy đôi tay nhục dục siết cổ nó</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Có kẻ lấy đôi tay vàng ròng bóp cổ nó</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Chính ra</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
kẻ tử tế nhất</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
lại là kẻ dụng dao</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Vì theo cách này</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Cái chết sẽ</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
đến nhanh</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
và</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Ít-đớn-đau</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Có kẻ giết </div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
bởi</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
chả-yêu-gì-mấy</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Có kẻ giết</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
bởi</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Cứ-yêu-lẵng-nhẵng-dằng-dai</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Có kẻ giết vì bán</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Có kẻ giết vì mua</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Có kẻ vừa giết vừa khóc </div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Có kẻ </div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Khi ra tay</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Không buông lấy</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
nửa-tiếng-thở-dài</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Thế đấy,</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Ai mà chẳng giết đi điều họ thương</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Và rồi,</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Vẫn-Cứ-Sống-Nhơn-Nhơn</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
© Như Huy </div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<strong>Nguồn: </strong> <a href="http://frozenthoughtz.wordpress.com/2009/07/24/yet-each-man-kills-the-thing-he-loves/" rel="nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://frozenthoughtz.wordpress.com/2009/07/24/yet-each-man-kills-the-thing-he-loves/</a></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-45042297985323592332013-01-25T06:17:00.000-08:002013-01-25T22:59:03.508-08:00Thư của Sol Lewitt, một trong những cha đẻ của chủ nghĩa tối giản, gửi cho Eva Hesse, nữ nghệ sĩ hậu tối giản<br />
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<em>Như Huy dịch</em></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<strong><span class="photo " style="padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;"><img alt="" class="photo_img img" src="https://fbcdn-sphotos-c-a.akamaihd.net/hphotos-ak-prn1/19530_10151394539277264_1739441693_n.jpg" style="border-bottom-width: 0px; border-color: initial; border-left-width: 0px; border-right-width: 0px; border-style: initial; border-top-width: 0px; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px; max-width: 620px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;" /></span></strong></div>
<div class="caption" style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px;">
<strong>Sol Lewitt</strong></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Eva thân mến</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Có lẽ đã đến cả tháng trời rồi kể từ khi cô viết cho tôi, và bây giờ có khi cô đã quên tâm trạng mình lúc ấy (tôi đoán vậy). Cô có vẻ không hề thay đổi, và luôn như thế- căm ghét bản thân mình. Đừng. Hãy học cách thỉnh thoảng chửi đụ-mẹ thẳng vào thế giới. Cô có toàn quyền làm điều đó. Hãy ngưng nghĩ ngợi lòng vòng, lo lắng quẩn quanh, nhìn trước ngó sau, so đo, suy đoán, sợ hãi, tổn thương, hy vọng có lối thoát dễ dàng, vật vã, ôm đồm, lúng túng, ngứa ngáy, gãi ghẻ, lẩm bẩm, lúng búng, gầm gừ, may nhờ rủi chịu, lộn xộn, hóc xương gà, dẫm cứt, chẻ sởi tóc làm tư, bới lông tìm vết, vừa đái vừa run, chõ mũi vào việc không phải của mình, móc đít, tự chọc mù mắt, chỉ tay năm ngón, chui rúc xó xỉnh, chờ đợi đến chảy nhão ra, rón ra rón rén, mắt long sòng sọc lên, giở thói ông rút chân giò bà thò chai rượu, tìm kiếm, đi trên mây, bôi bẩn mọi thứ, mài mòn, mài mòn, và mài mòn năng lực bản thân. Hãy ngưng hết lại. Chỉ làm thôi. Từ những gì cô mô tả, và từ những gì tôi biết về các tác phẩm trước đây của cô, và về tài năng (sic) của cô; tác phẩm cô đang làm có vẻ rất hay đấy- “Vẽ sạch và rõ, nhưng điên rồ như những cỗ máy, to lớn, hơn, và dữ tợn hơn…thực sự vô nghĩa”. Có vẻ hay đó, tuyệt vời đó- cái sự thực sự vô nghĩa ấy. Làm nữa đi. Vô nghĩa thêm nữa đi, điên nữa đi, máy móc nữa đi, vú vê, lồn cặc nữa đi, bất cứ điều gì- hãy làm chúng trông càng vô nghĩa càng tốt. Hãy cố gắng, và hãy khêu gợi điểu gì đó từ bên trong cô, sự “hài hước kì dị” của cô. Cô thuộc về phần bí mật nhất trong cô. Đừng nghĩ nhiều về việc phải oách, hãy tạo ra cái hai-lúa của chính mình. Hãy để mình là mình, là thế giới của mình. Nếu sợ hãi thì hãy bắt sự sợ hãi đó phải hầu cô- hãy vẽ kí hoạ hay vẽ sơn nỗi sợ hãi và âu lo đó. Hãy ngưng nghĩ về các thứ lớn lao to tát sâu xa như là “ quyết định một mục đích và một lối sống, một tiếp cận (sic) kiên quyết tới thậm chí vài mục đích bất khả hay thậm chí một mục đích tưởng tượng”. Cô phải thực hành việc là một kẻ ngốc, ngu dốt, rỗng tuếch. Và lúc đó, cô sẽ có thể LÀM!</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Tôi có sự tin tưởng lớn vào cô và mặc dù cô đang tự dằn vặt, tác phẩm của cô vẫn rất hay. Hãy cố làm ra tác phẩm DỞ- dở nhất theo như cô tưởng tượng, nhưng hãy cứ kệ mẹ nó đấy, và thoải mái thư giãn thôi- cô chả có trách nhiệm đéo gì với thế giới- mà chỉ có trách nhiệm với công việc của mình mà thôi- và nếu vậy, hãy LÀM đi. Đừng nghĩ là tác phẩm của cô phải giống với bất kì ý tưởng hay khẩu vị nào cô tưởng tượng ra trước khi làm nó. Nó có thể là bất cứ điều gì cô muốn. Song nếu cô thấy khi không làm nghệ thuật thì lại sướng hơn, vậy thì ngưng làm luôn. Và đừng trừng phạt bản thân vì điều đó. Tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ nghệ thuật đã ăn sâu vào trong cô đến mức mà cô sẽ cảm thấy nếu không làm thì không có gì sung sướng cả.</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<strong><span class="photo " style="padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;"><img alt="" class="photo_img img" src="https://fbcdn-sphotos-g-a.akamaihd.net/hphotos-ak-ash4/295423_10151394540702264_268432949_n.jpg" style="border-bottom-width: 0px; border-color: initial; border-left-width: 0px; border-right-width: 0px; border-style: initial; border-top-width: 0px; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px; max-width: 620px; padding-bottom: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; padding-top: 0px;" /></span></strong></div>
<div class="caption" style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 19px;">
<strong>Eva Hesse</strong></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Dù sao đi nữa, có vẻ là tôi hiểu được điều gì đó trong thái độ của cô bởi chính tôi cũng đã từng thường xuyên trải qua giai đoạn kiểu này. Tôi có một “sự tự phê đớn đau” về tác phẩm của mình và sau đó tìm cách thay đổi mọi điều có thể thay đổi. Điều này không khác gì việc căm ghét tất cả những gì mình đã làm, và tìm cách làm ra điều gì đó triệt để khác, và hay ho hơn. Có lẽ kiểu quá trình này là cần thiết với tôi ở chỗ nó cứ thúc tôi phải chạy, và chạy, không cho dừng lại. Có lẽ đó là cảm giác rằng mình có thể làm ra điều gì đó tốt hơn đống cứt mà mình đã trót làm ra. Có lẽ cần tới sự thống khổ để có thể hoàn tất những gì ta làm chăng?. Và có lẽ cảm giác này sẽ kích thích cô làm việc hay ho hơn. Nhưng đúng là sẽ rất đau đớn đấy, tôi biết quá rõ điều này. Tốt hơn hết là nếu cô có sự tự tin thì cứ làm, làm, và làm mà không nghĩ ngợi cho lắm làm gì. Cô không thể cứ mặc mẹ “ thế giới” và “NGHỆ THUẬT” cũng như ngưng vuốt ve xoa dịu cái tôi của mình sao? Tôi biết cô ( hay bất kỳ ai) chỉ có thể làm việc rất nhiều và toàn bộ thời gian không làm việc thì lại bận rộn với các suy nghĩ lòng vòng. Thế nhưng, khi làm việc, hay trước khi làm việc cô phải làm rỗng tâm trí và tập trung vào công việc. Sau khi cô xong, thì tác phẩm thế nào sẽ là thế ấy. Một lúc sau nữa, cô có thể thấy tác phẩm này hay hơn tác phẩm kia, nhưng điều quan trọng là cô cũng thấy được hướng đi tiếp. Tôi chắc cô biết tất cả những điều này. Cô cũng cần phải biết là cô không việc gì phải phán xét tác phẩm của mình cả-ngay cả bản thân cô nữa, cô cũng đừng phán xét nó. Nói thế nào nhỉ? Tôi thực sự ngưỡng mộ các tác phẩm của cô và không tài nào hiểu vì sao mà cô lại cứ lấn cấn về chúng? Nhưng cô mới là người có thể thấy ra các tác phẩm sắp tới của mình, còn tôi thì không thể. Cô phải tin vào chính tài năng của mình. Tôi nghĩ cô tin đấy. Nếu vậy, hãy cố gắng làm những việc khủng điên nhất mà cô có thể- hãy tự làm mình sốc đi. Bản thân cô sở hữu sức mạnh để có thể làm bất cứ điều gì.</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Tôi muốn xem tác phẩm của cô và sẽ phải chấp nhận chờ đến tháng Tám hay tháng Chín. Tôi đã xem ảnh một số tác phẩm mới của Tom (Doyle- chồng của Eva Hesse, một điêu khắc gia- - chú thích của người dịch) tại nhà Lucy (Lippard- phê bình gia nghệ thuật Mỹ- chú thích của người dịch). Chúng rất ấn tượng- đặc biệt các tác phẩm với hình thức đậm chất tinh xác: các tác phẩm đơn giản. Tôi nghĩ sắp tới anh ấy sẽ gửi nhiều ảnh nữa. Cho tôi biết các cuộc triển lãm và tác phẩm trông ra sao nhé.</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Tác phẩm của tôi đã thay đổi sau lần gặp cô và nó tốt hơn nhiều. Tôi sẽ có một triển lãm từ 4-9 tháng Năm tại Daniels Gallery 17E 64yh St (từng là chỗ của Emmerich (Andre, gốc Đức, chủ gallery nổi tiếng thập niên 50s-60s tại New York- chú thích của người dịch ). Tôi mong gặp cô ở đó. Yêu hai vợ chồng cô</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Sol</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
@Như Huy 2013</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<strong>Để biết thêm về Sol Lewitt, xem tại đây:</strong></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fhuybeo.blogspot.com%2F2011%2F04%2Fsol-lewitt-hai-bai-viet-ve-nghe-thuat.html&h=4AQGa3NDK&s=1" rel="nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://huybeo.blogspot.com/2011/04/sol-lewitt-hai-bai-viet-ve-nghe-thuat.html</a></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<strong>Để biết thêm về Eva Hesse, xem tại đây:</strong></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<a href="http://holieu.blogspot.com/2012/05/nghe-thuat-nu-quyen-trong-ki-20-va-21.html" rel="nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://holieu.blogspot.com/2012/05/nghe-thuat-nu-quyen-trong-ki-20-va-21.html</a></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<strong>Nguồn:</strong> <a href="http://jwvpk.wordpress.com/2009/03/10/letter-from-sol-lewitt-to-eva-hesse/" rel="nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://jwvpk.wordpress.com/2009/03/10/letter-from-sol-lewitt-to-eva-hesse/</a></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-46562046141657846152013-01-25T06:15:00.003-08:002013-01-25T06:17:59.859-08:00 (Như Huy dịch nhân dịp Giáng Sinh) | Một số câu nói của mẹ Teresa về Tình yêu thương*<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="http://1.bp.blogspot.com/-1A5FBxDSfNo/UQKTZMKmg2I/AAAAAAAAB7s/NsPjAFs9Vm8/s1600/399183_10151334359162264_454432129_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="http://1.bp.blogspot.com/-1A5FBxDSfNo/UQKTZMKmg2I/AAAAAAAAB7s/NsPjAFs9Vm8/s1600/399183_10151334359162264_454432129_n.jpg" /></a></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
1-Nếu cứ mải xét nét người, thời gian đâu ra mà yêu thương họ?</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
2- Tôi thấy ra một nghịch lí kì khôi. Đó là, nếu cứ yêu thương cho đến mức chịu bẽ bàng và thương tổn, thì ngay khi ấy, mọi tổn thương bẽ bàng sẽ tự-dưng-chấm-dứt, chỉ còn lại duy nhất tình yêu</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
3- Ai mà chẳng vô lý và vị ngã. Kệ họ nhé</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Khi mình tốt thì bị cho là có mưu đồ xấu. Vẫn cứ tốt nhé</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Khi mình trung thực và thẳng thắn thì hay bị lừa. Vẫn cứ trung thực và thẳng thắn nhé</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Khi mình bình yên và hạnh phúc. Họ sẽ ghen tị. Vẫn cứ hạnh phúc nhé</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Khi mình thành công, sẽ xuất hiện những người bạn xạo và những kẻ thù thực sự. Vẫn cứ thành công nhé</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Điều tốt mình làm cho người hôm nay, ngay ngày mai, họ sẽ quên tiệt. Vẫn cứ làm điều tốt nhé</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
Thấy không? Nếu nghĩ cho tới, ta sẽ thấy rằng, vấn đề ở đây là giữa ta và Chúa. Nào phải giữa ta và họ</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
4- Vấn đề không phải là việc ta đã cho đi bao nhiêu, mà là việc ta đã trút bao nhiêu yêu thương vào sự-cho-đi ấy?</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
5- Không phải bất kì ai cũng có thể tạo nên các kì tích vĩ đại. Nhưng ai cũng có thể trút tình yêu thương lớn lao vào những điều nhỏ bé.</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
6- Tình yêu thương thực sự không so đo tính đếm. Nó chỉ biết nhẫn-nại-cho-đi</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
7- Ki-Tô nói yêu thương lẫn nhau. Ngài không bảo phải yêu lấy toàn thế giới.</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
8- Những gì ta xây dựng hàng năm ròng có thể sụp đổ chỉ trong một đêm. Nhưng vẫn cứ xây nhé.</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
9- Một trong những tật bệnh ghê sợ nhất, đó là không-có-ý-nghĩa-với-bất-kì-ai</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
10- Đừng nghĩ rằng tình yêu thương thực sự phải là điều gì đó vô tiền kháng hậu. Những gì chúng ta cần chỉ là:</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
nhẫn-nại-yêu và đừng-mỏi-mệt.</div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<br /></div>
<div style="color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 1.5em; margin-bottom: 0px; margin-left: 0px; margin-right: 0px; margin-top: 0px;">
<strong>*Lựa ra từ nguồn này:</strong> <a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.goodreads.com%2Fauthor%2Fquotes%2F838305.Mother_Teresa%3Fpage%3D1&h=cAQFtwCZS&s=1" rel="nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.goodreads.com/author/quotes/838305.Mother_Teresa?page=1</a></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-58180740583081721582013-01-25T00:41:00.001-08:002013-01-25T22:59:42.041-08:00D(ngh)ịch thơ Szymborska | Ba Chữ Lạ Lùng (The Three Oddest Words)<br />
Chữ mai-sau mới lìa môi<br />
Thanh âm đã chớm khuất vào ngày-xưa<br />
<br />
Chữ im-lặng mới vẳng ra<br />
Lặng im mới đó vỡ oà còn đâu<br />
<br />
Chữ hư-vô, lúc đặt câu<br />
Tôi bày cả cõi-u-sầu-mênh-mang<br />
<br />
<br />
©Như Huy 2012<br />
<br />
Nguồn: http://poemsetc.blogspot.com/2010/10/three-oddest-words.html
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-71039003184834240182012-06-19T20:50:00.008-07:002012-06-19T21:17:14.107-07:00Thế mà là nghệ thuật ư? hay quảng cáo sách không công cho NXB Tri Thức ^^<span style="font-weight:bold;">Lời nói đầu bản dịch "Thế mà là nghệ thuật ư?"</span><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/-HGojzKFDvpE/T-FJ2ugC_QI/AAAAAAAAB4s/9ggQZBVEUmk/s1600/IMG_4897.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 239px; height: 320px;" src="http://4.bp.blogspot.com/-HGojzKFDvpE/T-FJ2ugC_QI/AAAAAAAAB4s/9ggQZBVEUmk/s320/IMG_4897.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5755963003300412674" /></a><br /><br />Mới gần đây, khi giới thiệu với một số bạn trẻ một số tác phẩm của hai nghệ sỹ Christo và Jeanne-Claude(1), vào lúc chấm dứt buổi giới thiệu, một số người gặp tôi và hỏi, “thế rốt cục, cái đẹp của những tác phẩm đó ở đâu?”. Cũng một lần khác, nói chuyện với một số bạn trẻ khác, là sinh viên của một số trường đại học, khi tôi đề cập tới tác phẩm Fountain (Vòi nước) (2), của Marcel Duchamp, một sinh viên đã nói với tôi rằng, “nếu nghệ thuật mà dễ như vậy thì ai mà chả làm được nghệ thuật”, và “cái tác phẩm này chả khác gì những thứ mà em thấy xuất hiện đầy ngoài các tiệm bán vật liệu xây dựng”. Những dạng câu hỏi và ý kiến nêu trên, và thậm chí còn nhiều dị bản tương tự nữa hướng về các nghệ phẩm hiện đại, hậu hiện đại, và đương đại khác nữa, đã phản ánh rất rõ việc, có một khoảng trống trong giáo dục mỹ học, hay nói cách khác, giáo dục về triết học nghệ thuật ở Việt Nam. Vậy, chính xác, những gì được gọi là triết học nghệ thuật? à tại làm sao mà sự thiếu thốn của nó lại gây ra những câu hỏi như vừa được dẫn ở trên?<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/-JdakCBICRQU/T-FKAZU-csI/AAAAAAAAB44/BStieJf_fIA/s1600/articleLarge-v2.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 176px;" src="http://3.bp.blogspot.com/-JdakCBICRQU/T-FKAZU-csI/AAAAAAAAB44/BStieJf_fIA/s320/articleLarge-v2.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5755963169415525058" /></a><br /><span style="font-style:italic;">Tác phẩm "Bọc nhà quốc hội " của Christo và Jean Claude</span><br /><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/--PQvNAl6ny4/T-FKSPO5u2I/AAAAAAAAB5E/N8ra29GAVsY/s1600/duchamp_fountain.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 270px; height: 320px;" src="http://1.bp.blogspot.com/--PQvNAl6ny4/T-FKSPO5u2I/AAAAAAAAB5E/N8ra29GAVsY/s320/duchamp_fountain.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5755963475943340898" /></a><br /><span style="font-style:italic;">Tác phẩm"Vòi nước" của Duchamp<br /></span><br /><br />Trong cuốn sách, <span style="font-style:italic;">Triết học nghệ thuật, một dẫn luận đương đại</span> (3), tác giả Noël Carroll, chủ tịch hiệp hội Mỹ Học Hoa Kỳ, đã viết: “Thật sự ra, cuốn sách này (của ông) cũng có thể được đặt tên là <span style="font-style:italic;">Triết học phân tích về nghệ thuật: Một dẫn luận đương đại ( Analytic Philosophy of Art: A Contemporary Introduction)</span>(4). Có thể hiểu rằng, qua cái nhan đề giả định trên – Noël Carroll đã coi triết học về nghệ thuật thuộc mô hình triết học phân tích. Tiếp theo, ông lại đặt câu hỏi, vậy nếu đó là triết học phân tích thì:” Chính xác là dạng triết học này sẽ phân tích điều gì ?“(5). Đối tượng phân tích của dạng triết học này cũng được Noël Carroll trả lời ngay sau đó, là “ những khái niệm” (concepts).(6) Những khái niệm chi phối toàn bộ đời sống của con người, nó tổ chức các thực hành của họ, bao gồm khái niệm chính trị, khái niệm luân lý, khái niệm luật pháp, v.v., và lẽ dĩ nhiên, khái niệm nghệ thuật – tổ chức các thực hành thưởng lãm và sáng tạo nghệ thuật. Và như vậy, ở đây, chúng ta hiểu triết học phân tích về nghệ thuật chính là triết học phân tích về các-khái-niệm-nghệ-thuật<br /><br />Thật vậy, lịch sử nghệ thuật, nói một cách nào đó, chính 1à một lịch sử của những khái niệm nghệ thuật. Mỗi thời đại, nơi chốn, cộng đồng, hoàn cảnh cụ thể nào đó, sở hữu những khái niệm nghệ thuật khác nhau. Và chính những khái niệm nghệ thuật khác nhau đó, sẽ tổ chức các thực hành nghệ thuật khác nhau của mỗi thời đại, nơi chốn, cộng đồng và hoàn cảnh khác nhau. Lấy ví dụ, Một trong những khái niệm nghệ thuật xưa nhất từng dược biết tới của nghệ thuật phương Tây, đó là khái niệm, “nghệ thuật là sự mô phỏng” (Art as Imitation), do Plato, và học trò của ông là Aristotle đưa ra. Lẽ dĩ nhiên, với người Hy Lạp cổ đại, khái niệm nghệ thuật mà họ hiểu và bàn tới, khác với khái niệm nghệ thuật như chúng ta hiểu ngày nay – nó có một trường rộng hơn – là bất kỳ thực hành nào đòi hỏi kỹ năng, và bởi thế, nó còn bao gồm cả nghề làm thuốc và quân sự. Vì lẽ đó, không phải đối với Plato và Aristotle, mọi loại hình nghệ thuật theo cảm năng đòi hỏi một kỹ năng đều là sự mô phỏng, mà với hai triết gia này, khi nói nghệ thuật là sự mô phỏng, họ chỉ nói tới thi ca, bi kịch, hội họa, điêu khắc, vũ đạo và âm nhạc, mà thôi. Khái niệm mô phỏng, theo Plato, khi nói về bi kịch (cũng như hội họa), có một ý nghĩa xấu. Theo ông, bản chất của bi kịch là sự mô phỏng – là vẻ bề ngoài đội lốt. Các diễn viên trong bi kịch mô phỏng nhân vật mà họ sắm vai. Với Plato, điều này là có vấn đề bởi ông tin rằng sự quyến rũ và khích gợi cảm xúc thông qua vẻ bề ngoài sẽ tạo ra nguy hiểm về mặt xã hội. Một cộng đồng công dân (citizenry) duy cảm là một cộng đồng công dân nông nổi (unstable), dễ bị ảnh hưởng bởi những phương pháp mị dân hơn là bởi cảm năng về cái thiện hảo. Theo Plato: “ Mọi nhà mô phỏng thi ca, bắt đầu từ Homer, chỉ mô phỏng các hình ảnh của đạo đức cũng như của các sự vật khác khi họ viết, và không có mảy may chân lý nào ở trong những mô phỏng ấy hết”(7)( sách Cộng Hòa 10| Republic 10) Và thậm chí trong loạt sách “ Cộng Hòa” của mình- hình dung về một quốc gia lý tưởng, Plato còn thẳng tay đưa các nhà bi kịch (cũng là các nhà thơ) ra ngoài vòng pháp luật. Cũng coi nghệ thuật là sự mô phỏng, song Aristotle, học trò của Plato, lại cho rằng, dẫu các bi kịch khơi gợi cảm xúc và nỗi sợ hãi của người xem, song chúng làm thế cho mục đích carthasis ( thanh tẩy), và bởi vậy, có lợi cho người xem. Hơn nữa, Aristotle còn cho rằng, con người có thể học được từ sự mô phỏng và việc thụ đắc hiểu biết từ sự mô phỏng là nguồn mạch thỏa mãn chủ yếu công chúng có được khi tới nhà hát. Trong cuốn Thi Pháp ( Poetics) nổi tiếng của mình, ông viết, ” Sự mô phỏng ( mimesis) vốn sẵn có ở con người từ thưở nhỏ, và con người khác giống vật ở chỗ họ có tài mô phỏng, nhờ có sự mô phỏng mà họ thu nhận được những kiến thức đầu tiên”(8), và trong cuốn Siêu Hình Học ( Metaphysics) của mình, ông cũng cho rằng, “con người luôn yêu mến sự học hỏi”(9). Như vậy, ở đây chúng ta thấy, dù có khác nhau trong cách đánh giá sự mô phỏng, song khái niệm về nghệ thuật của cả Plato và Aristotle đều tương tự. Có nghĩa là, với họ, nghệ thuật chính là sự mô phỏng. Hay nói cách khác, mô phỏng là điều kiện cần và đủ cho những dạng kiểu thực hành nào đó được gọi là nghệ thuật. Mô phỏng là cái đặc trưng chung, mà một con người, một địa điểm, một vật thể, một hành vi, hay một biến cố – nếu muốn được coi là nghệ thuật thì phải trưng ra. Ở đây, mệnh đề của Plato và Aristotle sẽ là:<br /><br /><span style="font-style:italic;">“X là một nghệ phẩm khi và chỉ khi nó là sự mô phỏng”</span><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/-OVmt8FKE9Y4/T-FKpmq2CbI/AAAAAAAAB5Q/_LcQRd0GBlk/s1600/plato3.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 308px; height: 320px;" src="http://4.bp.blogspot.com/-OVmt8FKE9Y4/T-FKpmq2CbI/AAAAAAAAB5Q/_LcQRd0GBlk/s320/plato3.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5755963877371546034" /></a><br /><span style="font-style:italic;">Triết gia Plato</span><br /><br />Như ta thấy, chính cái khái niệm về nghệ thuật là sự mô phỏng trên, đã tổ chức toàn bộ các thực hành thưởng lãm và sáng tạo nghệ thuật trong thời đại của Plato và Aristotle. Có nghĩa là, vào thời đó, những thực hành như vẽ tranh, làm tượng, viết bi kịch, các thi thoại và vũ điệu trong bi kịch- chỉ khi mang theo tính chất mô phỏng mới được gọi là nghệ thuật và mới xứng đáng để quan tâm, tư duy, sưu tầm, và thưởng thức. Tất cả những thực hành không chứa đựng sự mô phỏng, không được coi là nghệ thuật và sẽ bị đối xử một cách thờ ơ, không đáng quan tâm.<br /><br />Khái niệm về nghệ thuật là sự mô phỏng này có ảnh hưởng lớn đến cách quan niệm nghệ thuật ở phương Tây, thậm chí kéo dài cho tới đầu thế kỷ 19, mãi cho tới khi có sự ra đời của nhiếp ảnh. Tuy nhiên khái niệm này đã thực sự trở nên bế tắc khi bắt đầu có sự xuất hiện của hội họa trừu tượng (Abstract Paintings), với các nghệ sỹ khởi đầu như Vassily Kandinsky(1866-1944), Paul Klee(1879-1940), Piet Mondrian(1872-1944) hay Kasimir Malevich(1878-1935).<br /><br />Thật vậy, bằng việc rời bỏ hoàn toàn thế giới hiện tượng khách quan để chỉ quan tâm tới các mô dạng lý tưởng (10), tác phẩm của các nghệ sỹ nói trên đã triệt tiêu đi toàn bộ tính chất mô phỏng của nghệ thuật theo quan điểm của Plato-Aristotle, để thay vào đó trình ra những đường nét và mầu sắc thuần túy. Thậm chí với Piet Mondrian, trong một phát ngôn của mình, còn cho rằng các tác phẩm của ông” tìm cách vượt xa hơn hệ thống giá trị của con người để đạt tới sự vô tận và vĩnh cửu” (11). Ngay tại đây, ta thấy khái niệm nghệ thuật là sự mô phỏng với mệnh đề, “X là một nghệ phẩm khi và chỉ khi nó là sự mô phỏng” đã gặp bế tắc, bởi nó sẽ không thế quan niệm nổi tác phẩm của những nghệ sỹ kể trên là nghệ thuật, và vì thế, sẽ đối xử một cách thờ ơ, và không chiếu vào đó bất kỳ một mối quan tâm nào.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/-J3BqoHNvs7A/T-FKzd_MJ0I/AAAAAAAAB5c/BaYaRf5IgWA/s1600/immanuel-kant.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 240px;" src="http://1.bp.blogspot.com/-J3BqoHNvs7A/T-FKzd_MJ0I/AAAAAAAAB5c/BaYaRf5IgWA/s320/immanuel-kant.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5755964046839654210" /></a><br /><span style="font-style:italic;">Triết gia Immanuel Kant</span><br /><br />Rõ ràng là tác phẩm của các họa sỹ trừu tượng là những thực hành tuân theo những cách thức tổ chức khác, và một khái-niệm-nghệ-thuật-khác. Khái niệm nghệ thuật này có lẽ phải truy ngược lại cho tới thời Khai Minh, với một triết gia quan trọng của nó là Immanuel Kant ( 1724-1804). Theo Kant, một điều đẹp đẽ luôn sở hữu cái gọi là “ tính hợp mục đích không có mục đích” (purposiveness without a purpose) (12), hay nói cụ thể hơn, theo Kant: “ Vẻ đẹp ( Shoenheit) là hình thức của tính hợp mục đích của một đối tượng, trong chừng mực tính hợp mục đích ấy được tri giác mà không có hình dung nào về một mục đích (khách quan) nơi đối tượng”(13). Có nghĩa là với Kant, bất kể một vật thể nào, dù có sở hữu sự mô phỏng hay không, nếu như nó mang đem những đặc trưng nào đó, về đường nét, mầu sắc, lối kiểu đan dệt, bố cục, gây ra được cho người thưởng ngoạn một xúc động về mặt mỹ cảm – thúc đẩy một trò chơi tương tác tự do giữa các quan năng nhận thức (14), là trí năng, giác năng, và tưởng năng của họ – vật thể ấy đã sở hữu một tính chất quan trọng nhất – đó là Cái Đẹp (Beauty). Bản thân Kant không cho rằng, nghệ thuật là phải đẹp, tuy nhiên, ý tưởng về Cái Đẹp của ông đã có nhiều ảnh hưởng tới các triết gia về nghệ thuật sau này, đặc biệt là các nhà hình thức luận (Formalists), với một khái niệm nghệ thuật là hình thức (Art as Form) , hay nói một cách cụ thể hơn, ý tưởng về cái Đẹp của Kant đã có ảnh hưởng lớn tới lý thuyết gia hình thức Civil Bell (1881-1964), với khái niệm về “Nghệ Thuật là Mô Dạng Tạo Nghĩa” (Art as Significant Form), một khái niệm sẽ giúp quan niệm được các thực hành trừu tượng là nghệ thuật. Theo Bell,<br /><br /><span style="font-style:italic;">“ Những gì là chất lượng chung cho kiến trúc nhà thờ thánh Sophia và các cửa sổ kính ghép mầu tại nhà thờ Chartres, điêu khắc Mexico, bát thuộc nền nghệ thuật Persian, các tấm thảm Trung Hoa, tranh tường của Giotto ở Padua, và các nghệ phẩm bậc thầy của Poussin, Piero della Francesca, và Cézanne?, chỉ có một câu trả lời khả dĩ ở đây, đó là –Mô Dạng Tạo Nghĩa. Trong mỗi tác phẩm ấy , đường nét, mầu sắc được liên gộp theo một cách nào đó, cùng với các thể dạng và mối liên hệ của các thể dạng, gợi nên được các xúc động mỹ cảm cho chúng ta. Những mối liên hệ và sự liên gộp này của đường nét, mầu sắc, cùng những thể dạng chuyển vận một cách mỹ cảm này, tôi gọi là” Mô Dạng Tạo Nghĩa”; và “Mô Dạng Tạo Nghĩa”là một chất lượng chung cho mọi nghệ phẩm thuộc nghệ thuật thị giác(15).</span><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/-msNoSxlvFIw/T-FLFxTvTLI/AAAAAAAAB5o/H0x8dcmMjho/s1600/mondrian.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 240px;" src="http://2.bp.blogspot.com/-msNoSxlvFIw/T-FLFxTvTLI/AAAAAAAAB5o/H0x8dcmMjho/s320/mondrian.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5755964361263762610" /></a><br /><span style="font-style:italic;">Tác phẩm của Piet Mondrian</span><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/-Z7U6wASJniU/T-FLR0rhixI/AAAAAAAAB50/bOLrDz46UBI/s1600/malevich.supremus-58.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 281px; height: 320px;" src="http://4.bp.blogspot.com/-Z7U6wASJniU/T-FLR0rhixI/AAAAAAAAB50/bOLrDz46UBI/s320/malevich.supremus-58.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5755964568327260946" /></a><br /><span style="font-style:italic;">Tác phẩm của Kazimir Malevich</span><br /><br />Và ở đây, mệnh đề của Bell về nghệ phẩm, thay vì, <span style="font-style:italic;">X là một nghệ phẩm khi và chỉ khi nó là sự mô phỏng</span>, đã trở nên là <span style="font-style:italic;">X là một nghệ phẩm khi và chỉ khi nó thể hiện ra Mô Dạng Tạo Nghĩa</span>. Các nghệ phẩm trừu tượng hoàn toàn thỏa mãn đòi hỏi ấy từ khái niệm Nghệ Thuật Như Mô Dạng Tạo Nghĩa của Clive Bell<br /><br />Trở lên trên, là hai ví dụ tôi nêu ra để cho thấy một sự thật là, mỗi khái niệm nghệ thuật khác nhau, sẽ đem lại những câu trả lời khác nhau cho những sự vật hiện tượng khác nhau. Quay trở lại những câu hỏi và ý kiến đặt ra với tôi ở đầu bài viết về tác phẩm của Christo và Jeanne-Claude hay của Duchamp, qua hai thí dụ vừa dẫn, có lẽ chúng ta đã đều nhận thấy – các câu hỏi và ý kiến đó đã đến từ một khái niệm nghệ thuật khác với khái niệm nghệ thuật tạo ra tác phẩm của Christo và Jeanne- Claude và của Duchamp. Nói một cách cụ thể hơn, cả câu hỏi đầu:” thế rốt cục, cái đẹp của những tác phẩm đó ở đâu?”đặt ra cho các dự án của Christo và Jeanne-Claude, lẫn ý kiến sau “nếu nghệ thuật mà dễ như vậy thì ai mà chả làm được nghệ thuật”, và” cái tác phẩm này chả khác gì những thứ mà em thấy xuất hiện đầy ngoài các tiệm bán vật liệu xây dựng”, đặt ra cho chiếc bồn tiểu của Duchamp – là một vật thể làm sẵn hàng loạt ( mà Duchamp gọi là ready made) và chả mô phỏng cái gì hết vì bản thân nó chính là một cái bồn tiểu trong-đời-thực -có lẽ đều bắt nguồn cả từ khái niệm về Cái Đẹp của Kant – chi phối cả các lý thuyết hình thức về nghệ thuật sau này, lẫn (trong nhiều nguồn khác nữa) quan niệm của người Hy Lạp cổ đại về nghệ thuật, khi coi nó phải là sự mô phỏng và đòi hỏi kỹ năng tạo chế.<br /><br />Rõ ràng là, để trả lời (hoặc tự trả lời) những câu hỏi và ý kiến dạng này, cần tới một sự giáo dục về thẩm mỹ (về triết học nghệ thuật) ở các tầm mức và tầm cấp khác nhau trong xã hội. Trong đó, ngoài các mô hình giáo dục theo kiểu định chế- thông qua nhà trường (chuyên nghiệp và không chuyên), các bảo tàng, các hệ thống gallery, những địa điểm mà nhìn một cách thẳng thắn, ở Việt Nam hiện tại, là chưa hiệu quả-còn là các mô hình giáo dục mang tính xã hội hóa, như in ấn, dịch thuật và giới thiệu các sách về triết học nghệ thuật, cũng theo các tầm mức và tầm cấp khác nhau trong xã hội.<br /><br />Cuốn sách “ thế mà là nghệ thuật ư?” (but is it art?) của Cynthia Freeland (và ấn bản tiếng Việt của nó, được in ấn và phát hành bởi nhà xuất bản Tri Thức), nhìn một cách nào đó, chính là một trong những thực hành thuộc mô hình giáo dục xã hội hóa nghệ thuật nói trên. Trong suốt gần 300 trang sách, ngắn gọn và cô đọng, được viết với một văn phong trong sáng và thông tuệ, cả một lịch sử dài các khái niệm về nghệ thuật, không chỉ của riêng phương Tây, mà còn từ phương Đông, đã được điểm qua và phân tích. Qua cuốn sách, người đọc chúng ta sẽ có một cái nhìn rõ ràng và có lẽ sẽ phần nào được cắt nghĩa rằng, khái niệm về nghệ phẩm và nghệ thuật, theo thời gian, đã phát triển để không chỉ còn là một khái niệm thuộc về cái đẹp, khơi gợi mỹ cảm, mà còn là một công cụ nhận thức, qua đó, phản chiếu các biến cố, các thông điệp xã hội, chính trị của nghệ sỹ. Người đọc chúng ta cũng sẽ được tiếp cận với hầu hết các lý thuyết mới nhất về nghệ thuật hiện đang chi phối mặt bằng phê bình nghệ thuật phương tây, như lý thuyết nghệ thuật vị định chế (Institutional theory of art), lý thuyết nghệ thuật vị triết ( Philosophical theory of Art), để rồi qua đó, có thể nắm bắt phần nào được phương cách mà nghệ thuật đương đại thế giới hiện nay đang được quan niệm, diễn giải và khởi hoạt. Một điểm đặc biệt của cuốn sách này là, khi đề cập tới sự phát triển của các khái niệm nghệ thuật, nó không chỉ coi các khái niệm ấy như những hệ thống lý thuyết đóng- mà còn liên đới chúng tới các hệ thống ngoại vi về mặt xã hội và chính trị, song có quan hệ chặt chẽ với chúng, trong đó có hệ thống các định chế nghệ thuật-như bảo tàng và các bộ sưu tập nghệ thuật cá nhân, hoặc hệ thống các khái niệm và biến cố về chính trị, khoa học, xã hội- như sự phát triển của ngành khoa học nhận thức, của Nữ Quyền Luận, của quan điểm Hậu Thực Dân, v.v.. Nói cách khác, bằng một tiếp cận mang tính nhân học, cuốn sách này đã liên đới nghệ thuật với tất cả những yếu tố ngoại vi mà nó cho là có tác động tương tác tới những cuộc chuyển hóa của chính khái niệm nghệ thuật.<br /><br />Tuy vậy, từ góc độ của một nghệ sỹ thực hành và một người đọc/viết về nghệ thuật ở Việt Nam, theo tôi, cũng phải nhìn nhận khách quan rằng, cuốn sách này, với tất cả sự minh triết, sâu sắc, và gọn gàng của một nỗ lực đại chúng hóa triết học về nghệ thuật, vẫn có một số điểm chưa được quán triệt trọn vẹn. Ví dụ như chương sách về chủ nghĩa Hậu Thực Dân chẳng hạn. Trong chương sách này, dường như Cynthia Freeland đã chỉ tường giải chủ nghĩa Hậu Thực Dân từ góc nhìn thuộc vị trí trung tâm (center), do đó, đã chưa đề cập sâu vào những tình huống và nỗ lực phản biện văn hóa của các nghệ sỹ và nghệ phẩm thuộc khu vực ngoại biên (periphery), nơi, nhìn một cách nào đó, đang bị chi phối bởi những công cụ định nghĩa khổng lồ như các định chế nghệ thuật, các khái niệm nghệ thuật từ phương Tây- dẫn tới tình huống mà các nghệ sỹ ấy đang tìm cách phản biện,-tình huống-mà tôi gọi là- sự ly-tán-tâm lý-ngay-trên-quê-hương(16). Nói một cách chính xác hơn, trong tiếp cận với lý thuyết Hậu Thực Dân của mình, Cynthia Freeland, bởi cái góc nhìn thuộc vị trí trung tâm của bà – đã chỉ quán chiếu sâu vào những nỗ lực, thông qua nghệ thuật, duy trì căn tính văn hóa của những cộng đồng ly-tán-vật-lý-khỏi-quê-hương mà thôi.<br /><br />Nhìn một cách nào đó, những sự chưa được quán triệt này là có thể hiểu được, nếu xét trên mục đích đại chúng hóa lý thuyết nghệ thuật cho công chúng phương Tây, và xét ở độ dài có giới hạn của cuốn sách. Và cũng từ góc độ của một nghệ sỹ thực hành và một người đọc/viết về nghệ thuật ở Việt Nam, theo tôi, thậm chí bất chấp cả những sự chưa quán triệt nào đó của nó, cuốn sách này vẫn là một cứ liệu vô cùng bổ ích cho bất kỳ ai quan tâm tới nghệ thuật, dù là với mục đích sáng tạo, phê bình bình luận hay đặc biệt là thưởng lãm nghệ thuật, nhất là dưới quan điểm, như chính lời Cynthia Freeland nói trong cuốn sách - <span style="font-style:italic;">“…không phải để hướng dẫn những công chúng biết cần phải suy nghĩ như thế nào, mà để tạo khả năng cho họ xem và hồi phản với tác phẩm tốt hơn là chỉ bằng tự thân họ …”</span>(17)<br /><br />Ở góc độ dịch thuật, cũng phải nói rằng, dẫu đây là một cuốn sách ngắn gọn, đã có một khối lượng rất lớn thuật ngữ từ các ngành khoa học, triết học và nghệ thuật khác nhau được sử dụng, mà trong đó, phần nhiều nhất là những thuật ngữ về nghệ thuật, theo tôi biết, mới chỉ được sử dụng hiển ngôn lần đầu tiên tại Việt nam. Nếu như các thuật ngữ về triết học cổ điển, tôi đã có được một sự may mắn lớn khi có những cuốn sách được dịch mẫu mực như <span style="font-style:italic;">Phê Phán Lý Tính Thuần Túy, Phê Phán Năng lực Phán Đoán, Hiện Tượng Học về Tinh thần</span>(18), v.v., – của học giả Bùi Văn Nam Sơn, hay với những thuật ngữ về ngôn ngữ, tôi cũng đã có một <span style="font-style:italic;">Từ Điển Thuật Ngữ Ngôn Ngữ Học Đối Chiếu</span>(19)của nhà ngôn ngữ học xuất chúng Cao Xuân Hạo và tiến sỹ ngôn ngữ học Hoàng Dũng – sử dụng như những đối chiếu, thì những dạng thuật ngữ khác như về truyền thông đại chúng, về các lý thuyết hậu hiện đại, hay về bản thân nghệ thuật, phần lớn tôi đã phải tự tạo lập, có tham khảo thêm từ một số nguồn tự do khác. Chính vì lẽ đó, tôi chắc rằng những thuật ngữ do tôi tạo lập ấy sẽ còn nhiều điều phải bàn kỹ, và trong tương lai, sẽ vẫn luôn mở ra cho các bổ sung và chuẩn hóa tốt hơn.<br /><br />Một góc độ khác, bởi mục đích phổ cập nghệ thuật dành riêng cho công chúng phương Tây, trong cuốn sách này, khi đề cập tới các khái niệm, thuật ngữ và biến cố thuộc văn hóa, xã hội, nghệ thuật, và triết lý phương Tây, Cynthia Freeland dường như đã mặc định rằng, đó là những kiến thức phổ biến mà mọi công chúng phương Tây phải biết, hoặc sẽ dễ dàng có đủ công cụ tìm kiếm để biết. Chính vì thế, khi đề cập tới những khái niệm, thuật ngữ, hoặc biến cố nào đó mà bà nghĩ rằng có tính phổ biến, Cynthia Freeland đã hoàn toàn không kèm thêm bất kỳ chú thích nào cho chúng. Tuy nhiên, như chúng ta đều hiểu, với hoàn cảnh Việt Nam, việc đã biết sẵn – hoặc sẵn có các công cụ để tìm kiếm –về các thuật ngữ, khái niệm và biến cố (mà Freeland coi là) phổ cập thuộc văn hóa, xã hội, nghệ thuật và triết lý phương Tây, trong thời điểm hiện tại, với số đông mọi người, không phải là điều đơn giản, và như kinh nghiệm bản thân tôi, một người học và đọc, nhiều khi, chỉ vì bế tắc với một thuật ngữ nào đó, mà cơ hội để thấu tỏ một cuốn sách có thể sẽ bị chậm đi rất nhiều. Chính vì lẽ ấy tôi đã gắng hết mức( lẽ dĩ nhiên, trong giới hạn khả năng), tìm cách chú thích tất cả những thuật ngữ, khái niệm, và biến cố được đề cập không kèm theo diễn giải trong bản gốc-mà tôi cho rằng- nếu không được giải thích rõ, có lẽ sẽ gây khó khăn cho người đọc thông thường khi tìm cách hiểu được lý lẽ hay nội dung được đề cập tới. Cũng lưu ý là, các chú thích và ghi chú của tôi trong cuốn sách này không phải để dành cho những người đã hoàn toàn hiểu các vấn đề được chú thích và ghi chú đó. Chính vì thế, nhân đây, tôi cũng mong những ai đã hiểu các vấn đề được đề cập trong chú thích và ghi chú của tôi, khi đọc sách, bỏ quá cho những cảm giác phiền toái có thể có, do những chú thích và ghi chú đó chẳng may gây ra cho họ.<br /><br />Bản thân tôi cũng vẫn tự biết rằng, với trình độ chưa nhiều, cả về dịch thuật và kiến thức nghệ thuật của mình, việc bắt tay vào dịch một cuốn sách, tuy ngắn, song theo tôi là rất khó và mang theo nhiều khái niệm và thuật ngữ mới mẻ thế này có lẽ là một việc khá “liều mạng” và hẳn sẽ để lại nhiều sai sót. Tôi hy vọng sau khi cuốn sách này được xuất bản, sẽ đón nhận được những đóng góp và ý kiến quý báu của các bậc thức giả và bạn đọc, ngõ hầu, trước hết là để cuốn sách có thể tốt hơn cho những lần tái bản sau ( nếu như nó tốt số) và sau nữa, là mở mang cho chính vốn kiến thức hạn hẹp của bản thân tôi.<br /><br />Tôi cũng xin dành tặng bản dịch này cho bố tôi, ông Nguyễn Như Giao, với những cuốn sách về nghệ thuật ông đem về sau khi du học ở nước Đức, cũng như với sự quan tâm và định hướng cho tôi từ khi còn nhỏ, đã chính là những bước khởi đầu quan trọng dẫn tôi tới con đường nghệ thuật tôi đang theo đuổi ngày nay.<br /><br />08/2008<br />Như Huy<br />———————————————————————————————–<br />(1) Christo và Jeanne-Claude là một cặp đôi nghệ sỹ với những tác phẩm thuộc nghệ thuật thực địa (Land Art) như phủ bọc kín nhà quốc hội Đức (Nhà Quốc Hội Bị Bọc Lại|Wrapped Reichtach, Berlin), hay sử dụng vải nhựa quây quanh các hòn đảo ở vịnh Briscayne, Miami, Florida ( Những Hòn Đảo Bị Bao Vây\Surrounded Island), 1983. Các dự án của họ thường phải mất một quá trình xin phép kéo dài tới hàng năm, hàng chục năm (tác phẩm Nhà Quốc Hội Bị Bọc Lại thậm chí có quá trình xin phép từ 1971-1995) và chỉ có thể thực hiện được với những số tiền rất lớn, thông qua quá trình xin tài trợ với những điều khoản phức tạp. Sau hết, các tác phẩm ấy còn là những tác phẩm không thể mua, bán và trao đổi trong thị trường nghệ thuật.<br /><br />(2) Tác phẩm này là một bồn tiểu, được Duchamp đưa vào phòng triển lãm tại gallery 291 ở New York của Alfred Stiglitz, vào năm 1917 trong vai trò một nghệ phẩm với một cái tên giả R.Mutt<br /><br />(3) <span style="font-style:italic;">Philosophy of Art, An Contemporary Introdution</span>, Noël Carroll, reprinted by Routledge, 2006<br /><br />(4) Nt. Tr.2<br /><br />(5) Nt.<br /><br />(6) Nt.<br /><br />(7) <span style="font-style:italic;">The Routledge Companion to Aesthetics</span>, 2nd edition, edited by Berys Gaut and Dominic Mclver Lopes, Reprinted by Routledge 2007, tr.5<br /><br />(8) Nghệ Thuật Thy Ca, Aristotle, bản Việt dịch của Lê Đăng Bảng, Thành thế Thái Bình, Đỗ Xuân Hà, Thành Thế Yên Báy, Đoàn Tử Huyến hiệu đính, NXB Lao Động và Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây xuất bản 2007, tr.24.<br /><br />(9) The Routledge Companion to Aesthetics, 2nd edition, edited by Berys Gaut and Dominic Mclver Lopes, Reprinted by Routledge 2007, tr.20<br /><br />(10) Trong cuốn sách Cộng Hòa 10, Plato đã đưa thí dụ về 3 chiếc giường, trong đó, chiếc giường thứ nhất là một chiếc giường mô thức , mang tính ý thể nguyên khởi, chiếc giường thứ hai do thợ mộc làm ra, là sự mô phỏng theo cái mô thức giường nguyên khởi đó, còn chiếc giường thứ 3, do họa sỹ vẽ, chỉ là một sự mô phỏng thuần túy cách một chiếc giường nào đó hiện ra từ một góc nào đó trong không gian. Plato cũng biện biệt sự mô phỏng trong nghệ thuật thị giác bằng cách so sánh nó như thể một chiếc gương chiếu vật chỉ phản ánh thế giới một cách máy móc để qua đó cho rằng họa sỹ không hề tạo ra vật thể thực, mà chỉ là một hình ảnh. Và như thế, chiếc giường do anh ta vẽ, so sánh với cả chiếc giường mô thức và giường do thợ mộc làm, chỉ là một sự xa rời kép khỏi hiện thực mà thôi. Để tạo ra một hình ảnh chiếc giường như họa sỹ làm, không cần đòi hỏi kiến thức thuần thực. Và họa sỹ thậm chí cũng chả cần có một kiến thức mang tính sử dụng nào, để có thể mô phỏng thành công hình ảnh chiếc giường. Vì lẽ đó, hình ảnh chiếc giường mà anh ta mô phỏng xa rời hoàn toàn khỏi mọi dạng kiểu chân lý. Ở đây, các họa sỹ trừu tượng, nhìn một cách nào đó, theo Plato, có lẽ đã vượt khỏi vai trò của cả thợ mộc lẫn kẻ mô phỏng hình ảnh để đạt tới sự sáng tạo mô thức – công việc của Thượng Đế.<br /><br />(11) <span style="font-style:italic;">Art always changes</span>, Ray Bethers, Hasting house, Publishers, New York, 1958, tr.80<br /><br />(12) <span style="font-style:italic;">Phê Phán Năng Lực Phán Đoán, Mỹ Học và Mục Đích Luận</span> , Immanuel Kant, bản dịch Bùi Văn Nam Sơn, NXB Tri Thức xuất bản năm 2007, tr.136<br /><br />(13) Nt. Tr.115<br /><br />(14) Nt. Tr.368<br /><br />(15) <span style="font-style:italic;">The Nature of Art, an anthology</span>, edited by Thomas E. Wartenberg, Thomson/wadsworth publihsed 2002, tr.118<br /><br />(16)Thậm chí vào năm 2007, từng có một hội thảo tập trung các nghệ sỹ và lý thuyết gia nghệ thuật từ các khu vực ngoại biên để bàn luận về chủ đề rằng, “phải chăng lịch sử nghệ thuật mang tính toàn cầu ? “ ( Is Art History Global? ), đặt câu hỏi vào ngay chính cái được gọi là lịch sử nghệ thuật thế giới – mà một cách ngầm ẩn – dường như chỉ là lịch sử nghệ thuật phương Tây. Các bài viết trong hội thảo này được tập hợp trong một cuốn sách cùng tên “phải chăng lịch sử nghệ thuật mang tính toàn cầu ? “, James Eskins biên tập, NXB Routledge xuất bản vào năm 2007.<br /><br />(17) <span style="font-style:italic;">But is it art?,</span> Cynthia Freeland, Oxford University press, 2002, tr.176<br /><br />(18)<span style="font-style:italic;">Phê Phán Lý Tính Thuần Túy</span>, Immanuel Kant, Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, NXB Tri Thức 2004/ <span style="font-style:italic;">Phê Phán Năng Lực Phán Đoán</span>, <span style="font-style:italic;">Mỹ Học và Mục Đích Luận</span>, Immanuel Kant, Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, NXB Tri Thức ,2007,<span style="font-style:italic;">Hiện Tượng Học Về Tinh thần,</span> G.W.F. Hegel, Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, NXB Văn Học ,2006<br /><br />(19) <span style="font-style:italic;">Từ Điển Thuật Ngữ Ngôn Ngữ Học Đối Chiếu</span>, Cao Xuân Hạo và Hoàng Dũng, NXB Khoa Học Xã Hội, 2005<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Lưu ý: </span>Chữ Form có tính thuật ngữ trong bản dịch này, tôi xin đề nghị dịch sang tiếng Việt làm ba chữ khác nhau. Form trong văn cảnh triết học Plato, tôi đề nghị dịch là Mô Thức, Form trong Formalism, tôi đề nghị dịch là chủ nghĩa hình thức, còn Form khi mô tả các yếu tố hình ảnh trong một nghệ phẩm [ có liên quan tới cách nhìn của chủ nghĩa hình thức), tôi đề nghị dịch là Mô Dạng<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Nguồn: </span>Thế mà là nghệ thuật ư? ( từ tr. 9- tr.25) NXB Tri Thức 2009, Như Huy dịch từ nguyên bản ” But is it art?”, Cynthia Freeland, Oxford University Press published 2002Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-38965768795827285292012-06-05T01:15:00.007-07:002012-06-05T03:05:50.143-07:00Tác phẩm "Đi ngược dòng biểu tình" của Niwa Yoshinori<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/-UOSOB6Wfo5c/T83DVcdJLfI/AAAAAAAAB4Y/1HdhP-dAde4/s1600/tumblr_lounbwIVQO1qbe432o1_1280.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 240px;" src="http://2.bp.blogspot.com/-UOSOB6Wfo5c/T83DVcdJLfI/AAAAAAAAB4Y/1HdhP-dAde4/s320/tumblr_lounbwIVQO1qbe432o1_1280.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5750467072405089778" /></a><br /><br /><br />Lâu lắm không viết giới thiệu tác phẩm, vì bận quá ☺. Hôm nay, trong giai đoạn chờ bước vào một đợt bận mới với…3 dự án liền 1 lúc, tôi tự thưởng cho mình bằng việc giới thiệu một tác phẩm của nghệ sĩ Nhật Bản sinh năm 1982, Niwa Yoshinori. <br /><br />Niwa Yoshinori là một trong các nghệ sĩ đang lên của nghệ thuật đương đại Nhật Bản. Tác phẩm của anh luôn thách thức các đường biên của nghệ thuật đương đại thông qua việc sử dụng lối tiếp cận “can thiệp vào đời sống “ (intervention), và bằng chính sự can thiệp này, đặt ra những thức nhận mới cho công chúng về các định niệm cũ xưa-không chỉ về văn hoá, xã hội, mà còn về chính bản thân vai trò của nghệ thuật/nghệ sĩ trong đời sống ( các bạn có thể <span style="font-weight:bold;"><a href="http://www.niwa-staff.org/">click vào đây</a></span> để vào website của anh để xem thêm)<br /><br />Trong thời gian nhiệm trú nghệ thuật tại Arts Chiyoda 3331, Tokyo, chúng tôi đã có một buổi trình bày (với Niwa cùng một số các nghệ sĩ khác) về các tác phẩm của mình. Tôi đặc biệt có ấn tượng về một tác phẩm Niwa trình bày hôm đó, có tên là: “Đi ngược dòng biểu tình” (Walk in the Opposite Direction of a Demonstration Parade), được thực hiện vào năm 2011.<br /><br />Trong tác phẩm này, Niwa- trong vai trò người trình diễn- tìm cách đi ngược hướng một dòng người biểu tình đang hô vang khẩu hiệu yêu cầu chấm dứt việc sử dụng điện từ nguồn hạt nhân (Các bạn xem video ở dưới đây) <br /><br />Tác phẩm được mô tả như sau:<br /><br />“…Niwa tham dự vào một cuộc biểu tình chống sử dụng năng lượng nguyên tử, và đi ngược hướng từ đầu cho tới cuối dòng người biểu tình. Như thể không hề có chút liên nối gì với các thái độ quả quyết của cuộc biểu tình, trong tiến trình đi ngược dòng người, tác phẩm này đã nắm bắt phản ứng và sự bày tỏ thái độ của mọi người trước hành vi đi ngược dòng đó. Qua hành vi này, Niwa nỗ lực giải kết cấu hiện tượng có tính tập thể của một cuộc biểu tình, và từ đó, đặt ra câu hỏi về tính cá nhân…”<br /><br />Sau khi xem xong tác phẩm, tôi đã hỏi Niwa vì sao anh lại làm một tác phẩm như vậy, và bản thân anh thì cổ vũ hay phản đối việc đòi hỏi chấm dứt sử dụng năng lượng điện hạt nhân tại Nhật? Niwa đã trả lời rằng, trong vai trò một người dân, anh hoàn toàn đồng tình với mục đích của cuộc biểu tình đó, và sẵn sàng tham dự. Tuy nhiên trong vai trò là một nghệ sĩ, anh muốn đặt ra các câu hỏi xa hơn về mối quan hệ giữa tính cá nhân và thân phận của cá nhân thiểu số trong mối tương quan với tập thể- đa số. <br /><br />Tôi chợt nhớ đến một buổi thảo luận tại Indonesia với một số nghệ sĩ và giám tuyển. Chúng tôi cũng đã từng đề cập đến vấn đề này- tức đến câu hỏi thực sự thì vai trò của nghệ sĩ và nghệ thuật là gì trong thời điểm hiện nay. Một giám tuyển đã đưa ra một câu trả lời theo tôi là rất thú vị. Theo ông, vào thời xưa kia, khi còn tồn tại hình hệ nghệ thuật có tính ý thức hệ, nhiệm vụ của nghệ sĩ có thể chính là việc chống lại các quyền lực khả thị (visible power). Tuy nhiên, trong thời buổi hiện tại, khi thế giới đã bước vào một kỉ nguyên mà mọi thứ đều trộn lẫn và khó có thể còn tồn tại các câu trả lời đen trắng rõ ràng, nhiệm vụ lớn của nghệ sĩ phải là việc vạch trần ra các dạng quyền lực ngầm ẩn (invisible power). <br /><br />Kết nối ý tưởng này với tác phẩm “đi ngược dòng biểu tình” của Niwa, chúng ta thấy rõ ràng là, nếu như bản thân đoàn biểu tình với các khẩu hiệu hoàn toàn đúng đắn của nó, có thể là một thực hành chống lại một quyền lực khả thị ( ở đây có thể là quyền lực về chính trị, kinh tế, tư bản, hay quyền lực của khoa học kĩ thuật, trước thiên nhiên) – thì thực hành của Niwa lại đã đặt câu hỏi vào một dạng quyền lực ngầm ẩn- tức quyền lực của đa số, quyền lực của đám đông- một thứ quyền lực sẽ luôn có nguy cơ trở nên mù quáng khi lên tới một tầm mức nào đó, và vào lúc ấy, thực hành quen thuộc của dạng quyền lực này sẽ là tiêu diệt mọi giọng điệu khác với giọng điệu của nó. <br /><br />Xem tác phẩm:<br /><br /><iframe src="http://player.vimeo.com/video/29554897" width="500" height="375" frameborder="0" webkitAllowFullScreen mozallowfullscreen allowFullScreen></iframe><br /><br /><br /><span style="font-weight:bold;">Note:</span> <span style="font-style:italic;">bản quyền hình ảnh và video clip ở bài này: (c) Yoshinori Niwa Courtesy of Ai Kowada Gallery</span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com2tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-12145496942415160032012-05-05T04:05:00.004-07:002012-05-05T11:14:06.088-07:00La Boheme ( Lời việt: Như Huy)<iframe width="420" height="315" src="http://www.youtube.com/embed/On9irnsaPlc" frameborder="0" allowfullscreen></iframe><br /><br /><span style="font-weight:bold;"><br />Một ca khúc của Jacques Plante và Charles Aznavour. </span><br /><span style="font-weight:bold;">Lời Việt: </span>Như Huy <br /><br />Anh đưa em về năm tháng cũ <br />Đời ngập trong niềm lạc thú<br />Ngày và đêm chỉ có tiếng cười<br />Sắc hoa rực rỡ đón mời<br />Những đêm lụa gấm bên người nghe như đời sống ngưng trôi <br />Quên những ngày sau sẽ tới chỉ cần biết người đang bên tôi vì tuổi xuân cần chi tiếc nuối <br />Ta không màng đến nhân gian, khi thiên đường vẫn thênh thang, nơi đáy những li rượu vang<br /><br />La boheme, la boheme
<br />Vẫn thấy đâu đây, muôn hồn năm cũ<br />La boheme, la boheme
<br />Vẫn thấy đâu đâu, tháng ngày rực xanh <br /><br />Anh đưa em về năm tháng cũ<br />Ngày ngực căng tràn bầu máu nóng<br />Ngày mộng mơ ngày cho thiên tài<br />Những khuôn mặt những tên người<br />Vẫn như còn thấy bên đời như đang còn mãi rong chơi <br />Khi bao mơ mộng xưa cũ giờ dường như chỉ còn hấp hối vì thời gian chẳng cho tiếc nuối<br />Khi xong một giấc Nam kha, bao thiên đường cũng trôi xa, thế giới bỗng còn mình ta<br /><br />La boheme, la boheme
<br />Đã khuất nơi đâu, muôn hồn năm cũ<br />La boheme, la boheme
<br />Tháng năm bên nhau mù loà vì yêu<br /><br />Hôm nay anh về nơi đây<br />Chiều sầu vương chân trời như bốc cháy một mình nghe niềm đau thức dậy<br />Ôi căn phòng xưa mê cuồng<br />Nay hoang lạnh chiếu chăn buồn<br />Ôi bao con đường ta đã bước, rượu tình ta cùng nhau đã uống, vùng trời ta cùng nhau đã ước <br />Xin li biệt mãi nhau thôi, nâng li rượu cuối trên môi, sau lưng chiều đã lên ngôi, <br /><br />La boheme, la boheme
<br />Những phút êm vui, những giờ cay đắng<br />La boheme, la boheme
<br />Mãi mãi xa rồi những ngày rực xanh <br /><br /><span style="font-weight:bold;">Dịch từ bản tiếng Anh dưới đây: </span><br /><br />Let me tell of a time<br />when the world was in rhyme<br />with the sound of our laughter<br />Montmartre hanged with flowers<br />for far-forgotten hours of hunger and of love<br />Unaware in our youth of the sobering truth<br />of the years that came after<br />We laughed at common men<br />for we were heroes then<br />and heaven smiled above<br /><br />La boheme, la boheme<br />Poor hungry you, poor hungry me<br />La boheme, la boheme<br />See the old world that could not see<br /><br />All those innocent hearts<br />who imagined their arts<br />could be casually mastered<br />I miss them every one<br />for the sands of time have run away for each and all<br />For it seems that our schemes were impossible dreams<br />that could never have lasted<br />for when we woke at last the big parade had passed<br />and spring had gone its way<br /><br />La boheme, la boheme<br />Someone to care, someone to mind<br />La boheme, la boheme<br />We were in love and love is blind<br /><br />Now and then I return<br />and the memories burn with a bittersweet aching<br />I climb the same old stairs<br />but no-one longer cares<br />and there's no-one to greet<br />in the streets where we walked<br />and the bars where we talked<br />of a world we were making<br />I stand upon that hill until I drink my fill<br />then leave it all behind<br /><br />La boheme, la boheme<br />Moments of joy, moments of pain<br />La boheme, la boheme<br />Nothing can bring them back again<br /><br /><br />Lời Việt © Như Huy 2012Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-27658868237974205622012-02-27T10:36:00.004-08:002012-02-27T10:52:34.606-08:00Bài cũ trên yahoo ( 2008)| Nguyễn Huy Thiệp (NHT) [giải trí 30 phút trong khi đọc sách :)]1-Tự nhiên nhớ về các truyện ngắn ngày xưa của NHT. Theo tôi, một trong những điểm thành công của NHT thời điểm đó – chính việc các truyện ngắn ấy thể hiện một mối băn khoăn không dứt mang tính bản thể học về Thiện-Tính (Thiện-Tính này, ở đây, tôi hiểu theo nghĩa bao gộp cả <span style="font-style:italic;">Kindness, Goodness, Beauty, Love, Charity </span>^^). <br /><br />Thiện-Tính này xuất hiện xuyên suốt trong mọi câu chuyện của NHT, lúc thì hiện thân trong 1 anh giáo [hay anh chàng Nhâm nhỉ? (<span style="font-style:italic;">Thương Nhớ Đồng Quê</span>)] – qua những bài thơ tuyệt đẹp và dịu dàng của anh chàng đó] , lúc thì hiện thân trong 1 cô gái (con ông Cơ| <span style="font-style:italic;">Tướng Về Hưu</span>) [lộ diện qua câu nói của cô bé đó, đại loại, <span style="font-style:italic;">con ngốc lắm, ngây thơ cả tin lắm</span>, rồi ông tướng ôm lấy cô và nói, đại loại, <span style="font-style:italic;">con có biết rằng cả tin và ngây thơ chính là sức mạnh để sống?</span>], rồi lúc thì hiện thân qua cô con dâu nhà mấy anh em giai trong <span style="font-style:italic;">Không Có Vua</span> [lộ diện qua câu nói cuối cùng: <span style="font-style:italic;">Khổ lắm, nhục lắm, nhưng mà thương lắm</span>]<br /><br />2- Tuy nhiên, có lẽ phải hiểu; hiện thân qua 1 nhân vật không đơn giản là việc: Thiện-Tính chỉ nằm trong mỗi nhân vật ấy. Nhân vật đó ở đây chỉ là 1 kiểu<span style="font-style:italic;"> trạm điện</span> để Thiện-Tính cư ngụ mà thôi. Từ trạm điện này – Thiện-Tính xuất hiện, giằng co, đấu tranh, băn khoăn thương thỏa và xung đột trong khắp các cảnh huống và đôi khi tụ lại và phát sáng ở các trạm điện khác. Đây chính là một thành công của NHT – khi không xây dựng nhân vật chính cụ thể nào - là hiện thân duy nhất của Thiện-Tính, mà xây dựng một-nhân-vật-chính-Thiện –Tính, tạm trú trong một trạm nhất định -để khởi chuyện, và rồi từ đó ẩn nấp, và xuất hiện (rất nhiều khi bất ngờ) trong, hoặc là một chi tiết hành vi (hoặc lời nói) nơi quan hệ giữa các nhân vật, hay trong bản thân chính một nhân vật sắm vai ác, hay cũng có khi, trong một phong cảnh đẹp đến thao thiết, hoặc trong một phát ngôn chủ động xen vào của tác giả -như người dẫn chuyện (thường ở các loạt truyện sau này )- như thể một không khí luôn di chuyển và phóng dật khắp nơi, không thể nắm bắt. <br /><br />Chính sự xuất hiện bất ngờ này đó-về mặt thủ pháp - có lẽ đã tạo ra một cú shock về nhận thức cho người đọc (1)<br /><br />3-Nhìn từ góc nhìn này, có thể thấy, cái nhân-vật-Thiện-Tính trong truyện ngắn NHT, nhìn trong góc độ sử tính, đã có 1 sự biến chuyển về chất. Từ đơn giản như trong <span style="font-style:italic;">muối của rừng</span> hay truyện về trái tim gì đó [không nhớ tên ^^] (loạt <span style="font-style:italic;">Những Ngọn gió Hua tát</span> )– đến phức tạp hơn trong <span style="font-style:italic;">hai người chết dịch</span> (Loạt Những ngọn gió Hua Tát ) – khi Thiện-Tính bị đặt câu hỏi nghi vấn về sự vô nghĩa của nó trước hiện thực[câu cuối, nhớ đại loại: <span style="font-style:italic;">Mộ của 2 ông bà già đó, có lúc được gọi là mộ của 2 người yêu nhau, có lúc bị tụi trẻ con bảo: Mộ của 2 người chết dịch</span>) hay trong truyện <span style="font-style:italic;">Qua sông</span> – khi Thiện-Tính ở đây được đặt vào trong chính câu hỏi về mối quan hệ của nó với hành vi (tạm gọi là) Ác, hoặc hài hước và minh triết hơn, trong cú dẫm chân vào bãi cứt trâu của anh giáo trong <span style="font-style:italic;">thương nhớ đồng quê </span>ngay khi đang thao thao bất tuyệt về cái Thiện (2) <br /><br />Chính sự phát triển (tuy trong thời gian, song có lẽ không theo mô hình tuyến tính một chiều mà luôn giẳng co lúc này lúc khác) của Thiện-Tính , đã làm cho các truyện ngắn NHT trở nên như thể các nỗi băn khoăn dằn vặt không cùng về chính Thiện-Tính, về mọi vẻ dạng của nó, về quan hệ của nó với xã hội bên ngoài (thường là nhơ bẩn cùng khốn – cũng là 1 thủ pháp để soi rõ Thiện-Tính), về ý nghĩa của nó ( liệu nó có cần thiết không?), etc..<br /><br />4-Tuy nhiên, ta cũng để ý rằng, các nhân vật là trạm lưu trú chính của Thiện-Tính luôn là những nhân vật sống sót đến cùng – hoăc là sống sót theo kiểu vật lý, trải qua mọi thăng trầm (<span style="font-style:italic;">Không có vua</span>) hoặc là sống sót theo kiểu –(khi nhân vật-trạm -điện của Thiện-Tính- chết đi- hoặc về logic sẽ chết hay biến mất và không tìm lại được) vẫn lưu lại dư âm đến cuối truyện (các bài thơ của Đề Thám| <span style="font-style:italic;">Mưa Nhã Nam</span> hay hình ảnh biểu tượng về mẹ Cả trong <span style="font-style:italic;">con gái Thủy thần</span>]. Và đây có lẽ cũng là điểm làm cho một số truyện ngắn NHT thời đó mang dư vị của Aimatov (thì phải?). Nói chung, dù thế nào đi nữa, Thiện-Tính trong những truyện ngắn đó của NHT, đều sống sót đến cùng, dù có khi, không biết vì sao mà sống sót (đó là khi Thiện-Tính tồn tại như một mơ ước của NHT-có lẽ cũng của chúng ta- chứ không như một biến cố logic của câu chuyện). Và đây có lẽ cũng chính là điểm nhân văn làm nhiều người Việt Nam yêu mến NHT của thời điểm ấy.<br /><br />5 – Từ góc nhìn chiếu văn cảnh, sự thành công của NHT với những truyện ngắn thời điểm đó cũng chính là một thành công của việc – đưa sự băn khoăn về Thiện-Tính vào một xã hội hình như đã mất mọi mối băn khoăn về điều đó từ lâu –hay nói cách khác – một xã hội Việt Nam suốt một thời gian dài hoàn toàn không có bất kỳ điểm tựa tâm linh nào tồn tại được (điểm tựa về tôn giáo – nói một cách nào đó– cũng là điểm tựa về tính Thiện cho mọi xã hội). Nói một cách hơi võ đoán, trước NHT, các nhà văn Việt Nam (đặc biệt là về truyện ngắn) chưa ai đặt ra một chuỗi băn khoăn liền mạch về Thiện-Tính trong một xã hội băng hoại về đạo đức tận gốc rễ (3) <br /><br />6-Việc đọc NHT ở Việt Nam, hình như, hoặc thiên về hình thức (tìm các yếu tố hậu hiện đại trong truyện ngắn của ông) hoặc tâm linh (tìm những yếu tố về tính Nữ trong truyện ngắn của ông), thế cho nên, theo tôi, tiếc thay, đã chưa soi chiếu ( hoặc soi chiếu không đầy đủ) vào cách đặt vấn đề rất cổ điển của NHT. Đó là cách đặt vấn đề về chính Thiện-Tính, qua việc đưa nó vào một trường xung đột để khai triển các tư duy suy lý và có tính bản thể học về chính chân giá trị của nó. Chính điểm này theo tôi sẽ làm cho giá trị của các truyện ngắn của NHT thời đó sẽ còn tồn tại lâu dài –ít ra – xét trên một xã hội như VN hiện tại, khi nền tảng đạo đức chung trong mọi lãnh vực xuống cấp đến nản lòng<br /><br />7-Từ góc độ này, có thể thấy ra, sự thất bại của NHT trong các tiểu thuyết gần đây, không phải là sự thất bại về hình thức, khi NHT không thạo sử dụng 1 mô hình khác (tiểu thuyết – thay vì truyện ngắn) cho các tư duy của mình, mà là một sự thất bại xảy ra khi cảm hứng về Thiện-Tính đã không còn nữa trong tư duy của NHT (có thể bởi cái cảm hứng ấy đã được "vật-chất-hóa-một-cách-tinh-thần"thành ra cái tượng Phật to tổ bố ở phủ chàng chăng ^^<br /><br />8- Nói cách khác, cái làm nên truyện ngắn NHT chính là sự băn khoăn không ngơi nghỉ về Thiện-Tính. Khi đã hết băn khoăn, cũng hết chuyện luôn<br /><br />9-Đây là entry giải trí nên xin miễn trích dẫn chú thích dài dòng (và chính xác ^^)<br /><br />----<br /><br />(1) quả thực là tôi có băn khoăn hơi lâu lâu - khi lựa chọn giữa chữ "nhận thức" (hiểu theo nghĩa là một hành vi đã có sự suy lý xen vào) với chữ " không gian tiếp nhận" (hiểu theo nghĩa một không gian rộng hơn hiện diện trước khi có sự suy lý tạo ra "nhận thức". Hai chữ này sẽ dẫn đến hai kết quả khá khác nhau. <br /><br />Với chữ đầu " nhận thức" - thì sự xuất hiện bất ngờ của Thiện-Tính sẽ như một thủ pháp cụ thể (kiểu ngụ ngôn) - qua đó NHT chỉ ra sự tồn tại của cái bản thể Thiện tính trong mọi chủ thể - nhờ vậy, phát ra một thông điệp luân lý theo kiểu giáo dục (có lẽ là một chiều)cho người đọc. Còn trong trường hợp sau, " không gian tiếp nhận", thì sự bất ngờ này có lẽ không nhằm mục đích giáo dục một chiều như ở trường hợp đầu. Ngay khi "không gian tiếp nhận" duy nghiệm của độc giả đột ngột bị bị chuyển hướng(vào lúc Thiện-Tính xuất hiện ở nơi bất ngờ nhất), một sự giác ngộ tổng thể sẽ xẩy ra - không như một nhận thức(bài học luân lí) về cái bản thể Thiện tính luôn tồn tại trong chúng ta, mà như một thức nhận (episteme) lớn lao về toàn bộ lẽ phải- không chỉ nằm trong bản thân logic câu chuyện, mà còn trong chính cuộc đời thực. Vì lẽ đó, ở đây, cái thức nhận này không còn là thành quả của một "mẹo" giáo dục như trường hợp đầu, mà như một sự mở ra của cái Thiện phổ quát vào khi con người đột ngột bị đối mặt với hư vô và rồi ngay phút ấy - ý thức về một chân lý vượt khỏi mọi suy luận. (Hình như có điều gì đó tương tự theo kiểu cái kết"mở" của một bài Haiku ở đây). Dĩ nhiên, việc tôi vẫn chọn chữ "nhận thức"( dù có chút ngờ ngợ về khía cạnh "không gian tiếp nhận" cũng nói lên việc tôi chả tin lắm ( song không hẳn là hoàn toàn không tin) vào sự cao tay thế nào đó của NHT nhà ta . Nói khác đi, có lẽ tôi vẫn tin vào sự cao tay ấy - ít ra là ở góc độ nhìn nhận nó như thể một sự cao tay, song không ý thức, không tự biết)<br /><br />(2) thật tiếc là trong bộ phim cùng tên làm theo truyện ngắn - sự kiện này đã bị đạo diễn(Đặng Nhật Minh thì phải) diễn giải ( theo tôi hiểu) theo kiểu quy giảm thành ra một chi tiết gây cười tầm thường - dù cũng nói về sự phi lý và nực cười khi Thiện-Tính bị đặt trong những hoàn cảnh trớ trêu. Song ở đây, tất cả những sự minh triết thông qua nỗi buồn bàng bạc và nằm nơi đáy sâu của sự hài hước đó đã bị tước sạch bách. Nói cách khác, sự hài hước bề mặt luôn xảy ra vào lúc Thiện-Tính phải đối mặt với cuộc đời thường nhật và khốn nạn (một sự hài hước minh triết kiểu triết lý dân gian mà Nguyễn Huy Thiệp rất hay sử dụng, và phải công nhận rằng-sử dụng rất cao tay) - khi bị đạo diễn tước sạch đi linh hồn của nó, lý do tồn tại (raison d'être) của nó - là nỗi buồn sâu thẳm -đã chỉ còn như một cái cù nách cơ học và ngây ngô].<br /><br />(3) [có lẽ chính vì điểm này – một số người nhận ra sự phảng phất của không gian kiểu Dostoievski trong truyện ngắn của NHT chăng [đặc biệt kiểu không gian trong <span style="font-style:italic;">anh em nhà Karamazov</span> – cũng là một không gian hiện diện sự băn khoăn khủng khiếp và tàn bạo về Thiện-Tính, giá trị, và sự sống sót của nó – trong chừng mực này, có lẽ nên hiểu câu nói của Dostoievski “ cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới – thành ra: “cái Thiện (hiểu theo nghĩa được đề cập ở đầu bài viết-có trường rộng hơn "Cái Đẹp") sẽ cứu chuộc thế giới” chăng?. Một hành vi có tính biểu trưng về nỗi băn khoăn về giá trị vĩnh cửu, đồng thời cũng là sự vô nghĩa của Thiện-Tính, đó là khi cha Zosima quỳ dưới chân anh cả nhà Karamazov hay khi Raskolnikov quỳ dưới chân Sonia (hành vi này - về sau được phản chiếu một cách rất hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Coetzer [khi viên giáo sư tìm tới tận nhà cô sinh viên mà vì cô - ông bị cáo buộc quấy rồi tình dục và bị cho thôi việc – để quỳ dưới chân cô]Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-40626401733187365102012-02-06T05:10:00.000-08:002012-02-06T05:29:28.626-08:00Bài viết cũ (2006)|Vài nhận định rời về triển lãm “MAGMA|không cần dỗ giấc” của Sue Hajdu<span style="font-style:italic;">Như Huy</span><br /><br /><br /><span style="font-weight:bold;">1. Quá độ</span><br /><br />“Quá độ” là một trạng thái nằm ở quãng giữa hai trạng thái cũ và mới, là một khu vực - bởi tình trạng trung chuyển chưa định nghĩa xong của nó, bởi mô hình loãng động liên tục không thuộc hẳn về phía nào của nó - luôn lạ lùng nhất, hấp dẫn nhất và nhiều tiềm năng nhất. Tuy nhiên, mô hình của trạng thái quá độ này, bất chấp sự mở ra của nó về phía chưa biết, và vì lẽ đó, làm cho nó có vẻ dạng tương tự với mô hình của tình huống hiện sinh theo kiểu Sartre - lại rất khác với tình huống hiện sinh ấy.<br /><br />Trong trường hợp mô hình hiện sinh kiểu Sartre - một mô hình đặt nền tảng trên tiền đề “Hiện hữu có trước yếu tính” (l’éxistence précède l’essence) - tình huống hiện sinh nẩy ra khi chủ thể hiện sinh ý thức về tồn tại của bản thân vượt lên định mệnh và kinh nghiệm cũ, do đó, nó cũng ý thức luôn được sự tự do tuyệt đối trong thao tác dấn thân về phía chưa biết để tạo nên yếu tính cho bản thân.<br /><br />Xuất phát điểm của chủ thể hiện sinh kiểu Sartre luôn là hiện tại, và sau mỗi dấn thân của chủ thể ấy vào tương lai (trong thao tác tự nhận diện và sáng tạo nên bản thân), sẽ lại có thêm một hiện tại mới tiếp tục được mở ra. Ở đây, quá khứ, do không hề cung cấp được bất kỳ chất liệu nào có khả năng làm thay đổi quyết định và hành vi của chủ thể, dường như đã không hề tồn tại. Nói cách khác, với chủ thể hiện sinh, hành vi tạo ra những hiên tại mới cũng chính là hành vi đoạn tuyệt với kinh nghiệm và quá khứ.<br /><br />Trái với tình huống hiện sinh kiểu Sartre, trạng thái quá độ được đề cập ở đây, dù cho về bản chất là một trạng thái tiềm tàng luôn mở ra với tương lai, lại không hề cắt đứt mối liên hệ của chính nó với quá khứ. Trạng thái này không hề được xây dựng trên nền tảng của thế đứng xây lưng lại với quá khứ, mà tiền đề của nó lại nằm ở ngay chính sự nguyên hợp của nó cả với quá khứ lẫn tương lai, giữa cái đã biết lẫn cái chưa biết.<br /><br />Không chỉ là một hiện tại thông thường, do khả năng lưỡng lai của chính trạng thái ấy vào cả quá khứ và tương lai, trạng thái này đã trở nên một kiểu dạng siêu hiện tại, nơi mọi khả năng đều bị cường điệu và thái quá, mọi ranh giới đều bị nhòe mờ.<br /><br />Mọi chọn lựa của chủ thể trong trạng thái này đều là những chọn lựa thuộc về hiện tại – tuy nhiên, đó không phải là thứ hiện tại theo mô hình hiện sinh được cướp đoạt lại từ tương lai qua hành vi dấn thân vào phía chưa biết của chủ thể, mà là thứ hiện tại lẫn lộn, loãng động, bao quây chủ thể lại trong một không gian mờ ảo nhập nhằng của vô số khả thể và căn tính.<br /><br />Ở đây, trong môi trường “siêu hiện tại” này, quá khứ, y hệt như tương lai vậy, cũng chỉ là một trong những khả năng lựa chọn của chủ thể mà thôi.<br /><br />Tôi muốn dùng chính mô hình của trạng thái quá độ này làm một trong những vật chuẩn để từ đó đối chiếu vào tác phẩm <span style="font-style:italic;">Magma, không cần dỗ giấc (Magma, we’re not counting sheep)</span> của nghệ sĩ thị giác Úc, Sue Hajdu, diễn ra tại <span style="font-style:italic;">Gallery Quỳnh, 23 Lý Tự Trọng, Q.1</span>, từ<span style="font-weight:bold;"> 26 tháng Tư tới 07 tháng năm, 2006.</span><br /><br /><span style="font-weight:bold;">Magma|không cần dỗ giấc</span><br /><br />Trong không gian kín khoảng 8 mét vuông được quây lại trong gallery, tràn ngập một mầu đỏ nhức nhối của vải dạ (thứ vải thường dùng làm phông màn sân khấu hoặc dùng để bọc các hộp đựng trang sức) được phủ bọc kín khắp ba vách tường, bên những chiếc đệm và gối đỏ, dưới ánh lấp lánh của những chiếc đèn hình quả bóng nhiều cỡ to nhỏ khác nhau được ghép bằng nhiều mảnh kính nhỏ phản chiếu ánh sáng (thứ bóng đèn ta thường thấy ở các vũ trường hay các dạ hội) cùng những vật trang trí hình thù kỳ lạ được đính kim tuyến lung linh (thứ kim tuyến dùng để may trang sức dạ hội hay biểu diễn) treo trên trần nhà (là một tấm phông kết bằng 8 ngàn đóa hồng nhỏ bằng vải đỏ), nghệ sĩ Sue Hajdu và một bạn diễn khác (Quỳnh Phạm, chủ nhân của <span style="font-style:italic;">gallery Quỳnh</span>, là nơi thực hiện cuộc trình diễn và sắp đặt) được trang điểm một cách cường điệu với phục sức mầu đỏ thắm (bộ quần áo được thiết kế riêng cho những người trình diễn bao gồm áo ngắn, quần đùi, cùng bộ xà cạp theo kiểu Hồng Vệ binh Trung Hoa), nằm ngủ trong tiếng nhạc êm dịu, trước sự chứng kiến và bình phẩm của đám đông hiếu kỳ ở bên ngoài (có lúc lên tới gần 400 người trong khoảng thời gian một giờ), những người bị ngăn cách với hai kẻ trình diễn bên trong gallery bằng một lớp tường kính trong, xoay ra phía mặt đường.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/-vIM2l1fv4zM/Ty_UMii6ySI/AAAAAAAABkE/shJPCIEl64I/s1600/7829_144330247263_668022263_2381709_5606138_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 222px;" src="http://2.bp.blogspot.com/-vIM2l1fv4zM/Ty_UMii6ySI/AAAAAAAABkE/shJPCIEl64I/s320/7829_144330247263_668022263_2381709_5606138_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5706012564798490914" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/-eAwqyVZW85E/Ty_UMcBC-DI/AAAAAAAABj8/AuciqqstUrA/s1600/7829_144330532263_668022263_2381710_7811957_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 213px;" src="http://1.bp.blogspot.com/-eAwqyVZW85E/Ty_UMcBC-DI/AAAAAAAABj8/AuciqqstUrA/s320/7829_144330532263_668022263_2381710_7811957_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5706012563045808178" /></a><br /><br />Điểm đặc biệt của tác phẩm này là cuộc trình diễn, sau ngày đầu tiên được khởi đầu bởi Sue Hajdu và bạn diễn, bắt đầu từ ngày thứ hai trở đi, sẽ được chuyển vai cho những người tham dự từ các ngành nghề khác nhau, như nghệ sĩ, nhiếp ảnh gia, nội trợ, với các quốc tịch khác nhau, như người Việt hoặc người nước ngoài, các lứa tuổi khác nhau, sinh viên, trung niên, các giới tính khác nhau, nam, nữ, các mối quan hệ khác nhau, vợ chồng, bạn bè, họ hàng, cha con, v.v…<br /><br />Yêu cầu thứ nhất của vở trình diễn này là, số lượng người trình diễn phải từ 2 người trở lên, và trong suốt quá trình trình diễn, những người trình diễn không được phép nói chuyện với nhau. Yêu cầu thứ hai là những người tham gia trình diễn bắt buộc phải nhắm mắt suốt đêm, cho dù họ có ngủ được hay không.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">2.Môi trường quá độ</span><br /><br />Thành tố chủ yếu tạo nên tác phẩm này của Sue Hajdu chính là mầu đỏ nhức nhối chi phối toàn bộ không gian tác phẩm. Mầu đỏ ấy phủ lên, từ các vật thể (chăn gối nằm, vách tường, trần nhà, quần áo), con người (với khuôn mặt được trang điểm cường điệu đỏ rực), cho tới âm nhạc (không kể tới âm nhạc thánh thót vang suốt đêm trong căn phòng đỏ, thậm chí, vào ngày khai mạc, hai chàng trai thực hiện việc chỉnh nhạc cũng diện hai chiếc T-shirt đỏ rực). Mầu đỏ này thậm chí còn được khuếch đại thêm lên bởi các chi tiết kim tuyến trên các hình thù trang trí và những mảnh kính nhỏ dát trên các quả bóng nhiều cỡ treo trên trần nhà.<br /><br />Có thể nói, việc lựa chọn mầu đỏ làm thành tố chủ đạo cho tác phẩm của Sue Hajdu hoàn toàn không hề ngẫu nhiên.<br /><br />Trong cuốn <span style="font-style:italic;">Mầu sắc và ý nghĩa, nghệ thuật, khoa học và biểu tượng</span> của John Gage (1), có một đọan rất thú vị phân tích về mầu đỏ, xin được trích dẫn ra đây:<br /><br /><span style="font-style:italic;">" Mầu đỏ là một trong những mầu sắc hiếm hoi có thể tạo ra các hồi phản mang tính biểu tượng. Lý do cho điều này là bởi, trong hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, “đỏ” (red) từng được coi như một mầu sắc đệ nhất (par excellence) của máu sống. Khái niệm “đỏ” (red, rouge, rot hay roso) được phái sinh từ chữ Sankrit “rdhirà” - có nghĩa là “máu”. Trong ngôn ngữ Inca, Aymara, từ đồng nghĩa với Grana (tiếng Tây Ban Nha là: Crimson), ngoài puca, còn là vila, một khái niệm hàm chỉ “máu”. Sáhagun còn đưa vào bộ bách khoa toàn thư của ông một lời thuật lại của dân Aztec về một niềm tin rộng rãi rằng “đá huyết dụ” (bloodstone, eztetl) có thể được sử dụng trong một tiến trình ma thuật giúp cầm máu kinh nguyệt hoặc các vết thương khác"</span><br /><br />Việc mầu đỏ, qua đoạn trích trên, có liên qua tới máu và ma thuật, và bởi thế có thể gây ra các hồi phản mang tính biểu tựơng cao, theo tôi, chính là một trong những lý do chủ yếu thúc đẩy Sue Hajdu chọn nó làm thành tố chủ đạo cho tác phẩm của cô.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/-2aC9vxCga0Y/Ty_Ub8I0VmI/AAAAAAAABkU/bGWH6VbJj_c/s1600/7829_144330532263_668022263_2381710_7811957_n-1.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 213px;" src="http://1.bp.blogspot.com/-2aC9vxCga0Y/Ty_Ub8I0VmI/AAAAAAAABkU/bGWH6VbJj_c/s320/7829_144330532263_668022263_2381710_7811957_n-1.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5706012829366376034" /></a><br /><br />Và ngay tại đây, dường như chúng ta tìm thấy mối liên quan nào đó giữa môi trường của nghệ thuật trình diễn – nơi mà theo triết gia, phê bình gia nghệ thuật Arthur C. Danto, là<span style="font-style:italic;"> “điểm giữa của sân khấu và hắc ma thuật” </span>[2] - và trạng thái quá độ siêu hiện tại được nói tới ở phần đầu bài viết này.<br /><br />Quả vậy, dường như đã có một sự tương liên nào đó giữa các môi trường hắc ma thuật, nơi sở hữu quyền năng chuyển hóa mọi vật thể và trạng thái và môi trường siêu hiện tại thấm đẫm sắc đỏ do Sue Hajdu tạo ra. Trong môi trường siêu hiện tại này của Sue Hajdu, dưới áp lực mang tính áp chế của một sắc đỏ tối đa, các đồ vật và con người, không còn nghi ngờ gì nữa, đã bị buộc phải ngưng đọng lại trong một trạng thái nguyên hợp phi thời lạ lùng. Ở đó, hiện tại, quá khứ và tương lai giằng co với nhau để rồi tạo ra những ảo ảnh xộc xệch và nghịch dị. Ở đó các khuôn mặt đã không còn nguyên vẹn là những địa chỉ đáng tin cậy của căn tính cá nhân nữa, mà do bị chi phối bởi sắc đỏ của phấn dồi đậm, của son tía, giờ đây đã trở nên những mô hình phi căn tính hàng loạt theo kiểu búp bê Barbie. Ở đó, thậm chí hành vi ngủ, một trong những hành vi mang tính riêng tư tuyệt đối nhất, cũng đã không còn nguyên vẹn nữa, bởi chịu sự xâm phạm công khai của hàng trăm ánh mắt soi mói từ bên ngoài. Ở đó sự đồng bộ và thống nhất về mặt trang phục – là thành tố quan trọng thể hiện trạng thái, văn hóa và thời đại của người mặc trong xã hội hiện đại – đã bị phá vỡ bởi tình trạng nguyên hợp lạ lùng của chiếc quần cộc đơn giản (dạng đồ mặc trong nhà) và chiếc áo thiết kế cầu kỳ (dạng đồ mặc dạo phố). Ở đó, thậm chí ngay cả trạng thái thuần khiết của thân thể con người cũng không còn nguyên vẹn bởi hoàn cảnh mới của chúng trong tình thế của những hàng hóa sặc sỡ và loè loẹt bày trong tủ kiếng sáng đèn nhằm thu hút sự chú ý và khao khát của khách hàng.<br /><br />Tuy nhiên, không chỉ trong môi trường kiểu hắc ma thuật của Arthur C. Danto, nơi <span style="font-style:italic;">“các nghệ sĩ tìm cách xóa nhòa biên giới giữa nghệ thuật và cuộc đời, nơi họ bước ra ngoài hình ảnh của mình để tham gia vào chung không gian với công chúng”</span> (3) , hay trong môi trường trình diễn siêu hiện tại của Sue Hajdu, nơi nhờ vào việc sử dụng sắc đỏ như một chất cường toan cực mạnh để pha loãng và làm biến thái mọi thực thể thuần khiết, mới là quê hương của các dạng thực thể lưỡng lai, vô căn tính và phi thời. Còn một môi trường khác nữa, thậm chí còn có quyền lực siêu việt hơn trong thao tác pha loãng và trộn lẫn mọi thực thể vào nhau, trong khả năng tiêu diệt mọi cảm thức về căn tính cá nhân của con người để rồi đăng kết các cá nhân ấy vào một đam mê tập thể mang tính hệ thống.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/-NidMs7x1oHI/Ty_UmycpTZI/AAAAAAAABkg/jGM4WiIWtig/s1600/7829_144332057263_668022263_2381720_7679910_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 240px;" src="http://2.bp.blogspot.com/-NidMs7x1oHI/Ty_UmycpTZI/AAAAAAAABkg/jGM4WiIWtig/s320/7829_144332057263_668022263_2381720_7679910_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5706013015743745426" /></a><br /><br />Môi trường này - với phương Tây tư bản tân tự do – chính là môi trường của một xã hội tiêu dùng với các công cụ phục vụ cho nó như các siêu thị, credit card, thẻ ATM, các chương trình quảng cáo trên TV, các khu vui chơi giải trí tập trung như Disney Land, v.v…, nơi mà, theo Jean Baudrillard, <span style="font-style:italic;">“không hề có sự khác biệt giữa đồ ăn nhanh và gallery nghệ thuật, giữa tạp chí Playboy và các luận thuyết về cổ sinh vật học”</span>(4).<br /><br />Tuy nhiên, cũng môi trường này, trong khu vực các nước XHCN Đông Âu trước đây, lại là môi trường của một xã hội mang tính thiết chế bắt nguồn trên một cuộc chia sẻ tư tưởng khổng lồ. Tại đó, mọi căn tính cá nhân đều bị bắt buộc phải giải trừ và giảm thiểu để nhường chỗ cho một chủ nghĩa tập thể có tính chất cưỡng ép trong mọi khía cạnh và ngóc ngách của đời sống và tư duy.<br /><br />Có lẽ chính ngay tại đây, chúng ta nhận ra chiều kích xã hội sắc nét trong tác phẩm của Sue Hajdu.<br /><br />Dường như tất cả những thực thể lưỡng lai trong tác phẩm này của nghệ sĩ, nhìn một cách nào đó, đều là hình ảnh phản chiếu cuộc xung đột giữa ảo tưởng về một niềm tin theo kiểu tân tự do của một xã hội tiêu dùng: tin vào quyền tự do của mỗi cá thể, và ảo tưởng về một niềm tin bị chi phối bởi hệ tư tưởng mang tính tập thể: tin vào trạng thái bình quân của mọi giai cấp trong xã hội.<br /><br />Phải chăng, chính thông qua những hiệu ứng nghịch dị và không kém phần hài hước trong cuộc kết hợp kỳ lạ của các chi tiết trang sức, trang phục và trang điểm trên thân thể và khuôn mặt người trình diễn, trong hình ảnh của những con người đang nằm ngủ ngon lành nơi chiếc lồng “son” lóng lánh và đẹp như ảo ảnh – đã là những bình chú thẳng thừng của nghệ sĩ vào tình trạng không lối thoát của con người trước tất cả những cạm bẫy của mọi hệ tư tưởng - những cạm bẫy do chính con người tạo ra và rốt cục luôn dẫn họ đến một tình trạng tha hóa về căn tính một cách không tự biết.<br /><br />Ngay tại đây, tưởng cũng nên lưu ý một điểm rất thú vị về bản thân lai lịch của Sue Hajdu. Cha của cô là một nhiếp ảnh gia nghiệp dư Hungary, người đã từng chứng kiến và sở hữu một bộ ảnh về những sự kiện và cuộc can thiệp của quân đội Liên Xô vào Hungary vào năm 1956. Sue sinh ra, lớn lên và học tập tại Australia, một quốc gia tư bản, và hiện đang sinh sống và làm việc dài hạn tại Việt Nam, một quốc gia từng thuộc hệ thống XHCN và hiện đang tìm cách dung hợp hệ tư tưởng của nó vào môi trường thế giới toàn cầu, nơi mà không thể chối cãi, đang bị chi phối mạnh mẽ bởi mô hình của chủ nghĩa tư bản tân tự do.<br /><br />Rõ ràng là, nhìn một cách nào đó, các dấu vết trong lai lịch và ký ức của Sue Hajdu đều đã được thể hiện rất rõ qua thực hành nghệ thuật của cô.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">3. Chân dung cái Kitsch</span><br /><br />Tuy nhiên, sắc đỏ, bất chấp sự liên đới của nó tới ma thuật, tới những hồi phản mang tính biểu tượng cao, còn mang theo một chức năng nữa, đó là chức năng của một dạng ký hiệu nông, phẳng, không hàm chỉ bất kỳ điều gì nhiều hơn bản thân. Một cách nào đó, ta có thể thấy chức năng này của mầu đỏ qua sự mô tả của Piet Mondrian vào cuối năm 1929 về ba mầu sắc cơ bản mà ông thường dùng. Mondrian nhận xét rằng:<br /><br /><span style="font-style:italic;">"… mầu đỏ luôn mang đậm tính chất “thực" (real) hoặc “hướng ngoại"(outward), trong khi mầu xanh cô-ban và vàng lại có xu hướng “hướng nội” (inward) hoặc “tinh thần"</span>. (5)<br /><br />Chính cái bản chất “hiện thực” và “hướng ngoại" ấy của mầu đỏ - từng được nhận ra bởi một trong những bậc thầy đầu tiên của nghệ thuật trừu tượng – đã làm cho nó - nhìn từ góc độ biểu tượng – liên quan tới một trong những hiện tượng lạ lùng nhất, xưa nhất và khó định nghĩa nhất của văn hóa, hiện tượng được những người Đức đặt cho cái tên là “Kitsch" (cái rởm) (6).<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/-TdmiFjYOy0M/Ty_U9bU80bI/AAAAAAAABks/ZDVfXlZkyTU/s1600/7829_144332177263_668022263_2381721_3393945_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 310px; height: 320px;" src="http://3.bp.blogspot.com/-TdmiFjYOy0M/Ty_U9bU80bI/AAAAAAAABks/ZDVfXlZkyTU/s320/7829_144332177263_668022263_2381721_3393945_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5706013404674445746" /></a><br /><br />Theo phân tích của Clement Greenberg, Kitsch là một hiện tượng xuất hiện ngay khoảnh khắc giao thời của xã hội phương Tây, khi đám dân tân thành thị đông đúc (bị dồn ra thành phố do tiến trình đô thị hóa nông thôn và công nghiệp hóa xã hội), những kẻ cùng lúc vừa đánh mất đi khiếu thẩm mỹ dân gian, vừa bị thúc ép bởi nhu cầu khẳng định bản thân trong một môi trường mới, <span style="font-style:italic;">“rốt cục đã thiết tạo nên các yêu sách mới, và cưỡng ép xã hội phải sản tạo ra một dạng văn hóa thỏa mãn được khẩu vị văn hóa của họ" </span>(7). Tuy nhiên, trong cuốn tiểu thuyết <span style="font-style:italic;">Đời nhẹ khôn kham </span>(Unbearable Lightness of Being) của mình, nhà văn Milan Kundera lại tìm cách gắn kết cái Kitsch vào các xã hội kiểu cộng sản, nơi nó được thể hiện <span style="font-style:italic;">“thông qua sự vống lên những niềm hân hoan tạo chế của cảm giác chứa chan tình cảm kiểu vô thức tập thể trong đời sống xã hội cũng như tình đồng chí thân thiện gượng ép của những người cùng phe cánh" </span>(8). Quan niệm Kitsch như một “phạm trù văn hóa" (cultural category), triết gia Jean Baudrillard tìm cách truy ngược nguồn gốc của hiện tượng Kitsch cho tới tận thời điểm ra đời của <span style="font-style:italic;">“giai cấp trung lưu Phục hưng và sự hình thành của tính cầu kỳ cũng như trào lưu nghệ thuật Baroque của thế kỷ 17”</span> (9). Baudrillard cho rằng, Kitsch luôn là bằng chứng cho sự chuyển biến (mobility) của xã hội, <span style="font-style:italic;">“Kitsch không bao giờ tồn tại trong một xã hội thiếu vắng sự chuyển biến"</span>, (10) ông khẳng định. Ở một tiểu luận quan trọng khác về cái Kitsch mang tên “Những ghi chú về vấn đề Kitsch", nhà văn Áo nổi tiếng Hermann Broch lại buộc tội cái Kitsch như thể một <span style="font-style:italic;">“nguyên tố dữ trong hệ thống nghệ thuật lành mạnh”,</span> và về bản chất, nó <span style="font-style:italic;">“là một hệ thống mang tính phỏng nhại”</span>(11). Gần đây hơn cả, Saul Friedlaner, trong bài viết <span style="font-style:italic;">“Phản tư về chủ nghĩa Quốc xã; một tiểu luận về cái Kitsch và sự chết" </span>(Relections of Nazism; an essay on Kitsch and Death) lại <span style="font-style:italic;">“vạch trần ra những phương cách khác nhau mà nhờ đó cái Kitsch của chủ nghĩa Quốc xã (trong kiểu dạng trọn vẹn khác với những hình thái chuẩn của cái Kitsch mang tính giải trí của chủ nghĩa tư bản) kích thích niềm đam mê bệnh hoạn đối với sự chết chóc, một cách nào đó, thông qua hình ảnh thống thiết trong những cái chết bi hùng của các chiến binh"</span>(12)<br /><br />Từ một số đặc điểm trên đây của cái Kitsch, được phân tích và nhìn nhận qua góc nhìn của một số nhà văn và lý thuyết gia khác nhau, chúng ta đã có thể dễ dàng nhận thấy rằng, nếu như vào thời điểm cho tới trước thập kỷ 80, cái Kitsch tồn tại ở Việt Nam là dạng Kitsch theo mẫu nhận định của Kundera; dạng thẩm mỹ của sự “cường điệu vống lên những niềm hân hoan tạo chế" (minh họa rõ nét nhất cho dạng Kitsch này nằm ở các mô hình tranh cổ động với những khuôn mặt trẻ trung, tươi sáng, hồng hào luôn hướng về phía trước hoặc trong các vở nhạc kịch Trung Hoa quy tụ hàng trăm diễn viên với không gian rực đỏ cờ hoa), dạng thẩm mỹ được bảo trợ bởi các chính sách văn hóa của nhà nước (13) nhằm tới một mục đích nào đó (14), thì sau thập kỷ 90, dạng Kitsch tồn tại trong xã hội Việt Nam lại là dạng Kitsch theo mẫu quan sát của Greenberg hay của Baudrillard, dạng Kitsch xuất hiện một cách tự động và là hệ quả của các chuyển biến về mặt xã hội theo xu hướng thị trường và tiêu dùng. <br /><br />Chính dạng Kitsch này, thể hiện qua hình ảnh của các đồ trang sức, đồ lưu niệm rẻ tiền, các mặt nạ dân tộc, các quầy băng đĩa nhạc, các khu vui chơi tập trung như Đầm sen, Suối tiên, các hình tài tử hay ca sĩ Hồng Kông, Hàn Quốc, các chương trình trò chơi dành cho đại chúng trên truyền hình, các chương trình ca nhạc giao lưu qua điện thoại với công chúng số đông qua sóng phát thanh v.v…, đã là một trong những mô hình thẩm mỹ chủ đạo chi phối phần lớn mặt bằng xã hội Việt Nam hiện tại (15).<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/-Ss41Zirzk4Y/Ty_VOpNmrFI/AAAAAAAABk4/duVoFHaZUIk/s1600/7829_144331272263_668022263_2381713_5062102_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 221px; height: 320px;" src="http://2.bp.blogspot.com/-Ss41Zirzk4Y/Ty_VOpNmrFI/AAAAAAAABk4/duVoFHaZUIk/s320/7829_144331272263_668022263_2381713_5062102_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5706013700459506770" /></a><br /><br />Nhìn dưới ánh sáng này, rõ ràng các vật thể và không gian mang tính tạo chế, phỏng nhại và cường điệu trong tác phẩm Magma| không cần dỗ giấc của Sue Hajdu cũng lại đã trở nên những tấm gương phản chiếu rõ nét hình ảnh của xã hội Việt Nam, nơi đang có sự lưỡng lai của cả hai mô hình Kitsch kể trên.<br /><br />Và hình ảnh rõ ràng nhất của sự lưỡng lai này đã được thể hiện, không chỉ thông qua sắc đỏ (là một thành tố biểu tượng có tính chủ đạo với tần suất xuất hiện rất cao trong mọi mô hình Kitsch với lõi cốt là các cảm xúc mang tính trực tiếp và tạo chế) xuất hiện tràn ngập không gian tác phẩm, mà còn thông qua chính mẫu trang phục do Sue Hajdu thiết kế riêng cho những người trình diễn. Trong mẫu trang phục đó, chiếc xà cạp, một vật thể dành cho đại chúng, rẻ tiền và rất hay xuất hiện trong các vũ kịch Trung Hoa thời Cách mạng Văn hóa, đã được phối kết cùng với những cặp kính mát diêm dúa, là những vật thể trang sức tượng trưng cho xã hội tiêu dùng hậu công nghiệp.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">4.Sự nhòe mờ giữa chủ thể và đối tượng</span><br /><br />Một trong những hiện tượng đáng lưu ý nhất của nghệ thuật đương đại, nhìn dưới khía cạnh bản thể học, đó là hiện tượng tiến lại gần nhau, và rồi, nhoè lẫn vào nhau của chủ thể và đối tượng. Tại hai (trong số những) môi trường chủ yếu nhất của nghệ thuật đương đại là nghệ thuật sắp đặt (Installation Art) và nghệ thuật trình diễn (Performance Art), hiện tượng nhòe lẫn vào nhau của chủ thể và đồi tượng đều đã được thể hiện rất rõ.<br /><br />Nếu như trong nghệ thuật sắp đặt, kể cả trong “sắp đặt định giới" (site-specific) và “phi định giới" (non site-specific), thông qua <span style="font-style:italic;">“nhu cầu đòi hỏi người xem nhìn xa hơn các đối vật biệt lập để thấy được văn cảnh trong đó một tác phẩm được sản tạo, được trình bầy và được tri nhận"</span>(16), thông qua <span style="font-style:italic;">“sự định vị trong những văn cảnh văn hóa độc lập, có liên hệ và lấy cảm hứng từ chính môi trường trực tiếp”</span>(17), cuộc nhòe mờ chủ yếu giữa chủ thể và đối tượng ở đây là cuộc nhòe mờ giữa công chúng và tác phẩm, thì trong nghệ thuật trình diễn - bởi <span style="font-style:italic;">“hai khía cạnh quan trọng nhất của nó, một là thân thể nghệ sĩ, trong vai trò là chất liệu gốc, và hai là cũng chính thân thể ấy trong vai trò phương tiện giao tiếp vừa mang tính trình hiện(presentational) vừa mang tính tái trình hiện (representational)</span>,-cuộc nhòe mở chủ yếu nhất giữa chủ thể và đối tượng ở đây lại là cuộc nhòe mờ giữa nghệ sĩ và tác phẩm. Trong vai trò công cụ tái trình hiện, nghệ thuật trình diễn trở nên đối tượng mỹ học dành cho sự thưởng ngoạn (người trình diễn lúc này trở nên đối tượng cho cho người xem). Tuy nhiên, với vai trò là công cụ trình hiện, nghệ thuật trình diễn lại trưng bầy ra chính chủ thể thực (người trình diễn chính là một chủ thể)” (18).<br /><br />Hiện tượng nhoè mờ này của chủ thể vào đối tượng, nhìn một cách nào đó, thể hiện chính cái nhìn phản tư (self–reflexive) của con người vào một thế giới đã từng bền vững và cố định, thế nhưng giờ đây không còn có thể hiểu được nữa. Chính sự hoài nghi vào các tiền đề cũ đã chi phối các tiếp cận của nghệ sĩ từ mọi khu vực nghệ thuật. Họ không còn đủ điềm tĩnh và chừng mực để giữ nguyên hoặc (đôi khi) trang trí thêm cho cái khoảng cách nghiêm cẩn giữa họ và các đối tượng mà họ tiếp cận nữa, cho dù đó là chủ đề nghệ thuật, vật thể hay hiện trạng xã hội. Mỗi tiếp cận của họ tới chủ đề, giờ đây, chính là một tra vấn thẳng thừng của họ vào mọi ngóc ngách – không những của chủ đề ấy, mà còn vào ngay chính vào hành vi tiếp cận, vào ngay chính phương tiện và phương pháp tiếp cận mà họ đang sử dụng.<br /><br />Nhìn một cách nào đó, tác phẩm <span style="font-style:italic;">Magma| không cần dỗ giấc</span> của Sue Hajdu đã chính là một sân khấu mà trên đó hiện diện cả hai cuộc nhoè mờ tiêu biểu cho mọi tác phẩm nghệ thuật đương đại vừa kể trên.<br /><br />Trong vai trò một sắp đặt định giới, tác phẩm của Sue Hajdu đã tạo ra một hiệu ứng “toàn nhập” (immersive) đối với cả hai dạng công chúng tham dự vào tác phẩm.<br /><br />Với những công chúng tham dự một cách trực tiếp (những người ngủ trong căn phòng kính), việc được (bị) đặt vào một trạng thái lạ lùng giữa riêng tư và công cộng rõ ràng đã gây nên trong họ một nỗi hoang mang kỳ lạ. Ngay khi ý thức về tình thế lộ thiên của các hành vi riêng tư của mình trước hàng trăm con mắt quan sát của công chúng phía ngoài đường, một nỗi bất an và ngại ngùng đã nẩy sinh trong tâm lý của những công chúng ấy. Tuy nhiên, cũng ngay lúc đó, bởi ý thức rõ rệt về tình trạng được bảo vệ trong một khu vực an toàn bất khả xâm phạm tuyệt đối, nơi tâm lý của các công chúng đang nằm ngủ trong căn phòng kính (được bảo vệ bằng nhiều lớp cửa sắt) cũng lại xuất hiện một cảm giác dễ chịu của việc được thoát khỏi mọi nỗi hiểm nguy của đời sống bên ngoài (cái cảm giác tương tự như cảm giác thường xuất hiện mỗi khi chúng ta nằm trong chăn ấm nệm êm trong khi ngoài trời mưa to bão lớn).<br /><br />Chính nỗi hoang mang kỳ lạ gây nên bởi hai khía cạnh tâm lý trái nghịch nói trên đã mang những công chúng tham dự trực tiếp vào tác phẩm tới một không gian tâm lý khác xa với những gì mà họ từng quen thuộc trước đây, một không gian tâm lý cách ly hẳn khỏi đời sống thường nhật.<br /><br />Về phần những công chúng gián tiếp tham dự vào tác phẩm (những người đứng xem ở bên ngoài), tuy bị ngăn cản một cách vật lý khỏi tác phẩm bởi tấm kính chịu lực trong suốt, thế nhưng qua những gì họ quan sát thấy trong căn phòng đỏ nơi có những công chúng giống như họ đang nằm ngủ, rõ ràng là một sự kết nối nào đó về mặt tâm lý (thông qua các hiệu ứng thị giác) giữa bản thân họ với tác phẩm đã xuất hiện. Sự kết nối về mặt tâm lý này đã xoá nhòa đi khoảng cách vật lý giữa các công chúng quan sát tác phẩm và bản thân tác phẩm để rồi, cũng lại mang những công chúng ấy tới một không gian tâm lý mới mẻ, vừa có tính chất liên đới, vừa có tính chất ngoại phạm, một không gian tâm lý luôn xuất hiện trong các tình huống thị dâm (voyeristic).<br /><br />Chính hiệu ứng tâm lý mang tính toàn nhập lạ lùng và nước đôi này - xảy ra cho cả hai dạng công chúng khi tham dự (hoặc gián tiếp, hoặc trực tiếp) vào tác phẩm – đã là những gì làm cho tác phẩm của Sue Hajdu thuộc về cái phạm trù mang tên “vượt thoát" (escape), là một trong năm phạm trù (19) của nghệ thuật sắp đặt được tổng kết tại thời điểm bắt đầu thiên niên kỷ mới. Điểm chung của các tác phẩm sắp đặt thuộc phạm trù “vượt thoát" này là: “bằng cách này hay cách khác, chúng luôn tạo ra những không gian mang tính tưởng tượng cao nhằm khích gợi (và mang đem) công chúng vượt thoát khỏi các tình huống thuộc đời sống thường nhật…” (20).<br /><br />Tuy nhiên, khi quan sát tác phẩm <span style="font-style:italic;">Magma| Không cần dỗ giấc</span> dưới góc độ là một tác phẩm trình diễn, chúng ta lại dễ dàng nhận thấy, do có sự góp mặt của chính tác giả Sue Hajdu vào tác phẩm (Sue Hajdu là một trong hai người ngủ đầu tiên vào ngày khai mạc tác phẩm), khoảng cách giữa bản thân nghệ sĩ và tác phẩm này đã bị xóa bỏ thẳng thừng.<br /><br />Trong vai trò là một thành tố cấu thành nên tác phẩm, một tình trạng lẫn lộn giữa chủ thể (subject) và đối tượng (object) đã lập tức xuất hiện ngay nơi thân thể Sue Hajdu. Chính tình trạng lẫn lộn này, xuất hiện khi thân thể trở nên chất liệu nghệ thuật, đã khiến cho cái thân thể ấy không chỉ còn là một tồn tại (being) đơn tĩnh nữa, mà trở nên một khu vực của vô số ranh giới: ranh giới giữa chủ thể và đối tượng, giữa ta và họ, giữa vật chất và tinh thần, giữa nhìn và bị nhìn, giữa định nghĩa và bị định nghĩa, giữa diễn giải và câu đố, giữa sự thực cuộc đời và ảo giác nghệ thuật v.v…<br /><br />Và ngay tại nơi đây, một chiều kích mới cho tác phẩm đã được mở ra, chiều kích của mối tương liên bất khả tháo gỡ giữa những trải nghiệm riêng tư của nghệ sĩ và sự sản tạo nghệ thuật mang mầu sắc xã hội.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">5.Kết luận</span><br /><br />Dường như luôn có hai nguy cơ chủ yếu đe dọa các tác phẩm theo xu hướng đương đại của các nghệ sĩ làm việc trong môi trường Việt Nam. Nguy cơ thứ nhất nằm ở sự cầu kỳ và rắc rối trong cách tiếp cận vấn đề. Nguy cơ này (hoặc bởi chủ quan, khi nghệ sĩ lệ thuộc quá nhiều vào lý thuyết và kỹ thuật do tình trạng làm nghệ thuật theo từ điển, hoặc bởi khách quan, khi nghệ sĩ phải tỉm cách tiếp cận đường vòng với chủ đề để tránh khỏi chính sách kiểm duyệt cứng nhắc quan liêu) thường dẫn tác phẩm tới tình trạng của một đống hổ lốn các hiệu quả thị giác, thính giác hoặc công nghệ cũng như vô số ẩn dụ rỗng nghĩa, để rồi kết quả sau cùng chỉ là một cảm giác lạc lõng và nhạt nhẽo hiện diện nơi người xem. Nguy cơ thứ hai là nguy cơ của những thông điệp giản đơn một chiều theo kiểu trắc nghiệm, được tạo chế chỉ để phục vụ óc tò mò của những người xem khác văn cảnh. Nguy cơ này lại luôn dẫn tác phẩm - bởi thiếu đi tính chất phản tư cần có - tới một không khí hoặc là cường điệu, hoặc là nghiêm trang giả tạo, bất kể tác phẩm có đề cập tới vấn đề gì đi chăng nữa.<br /><br />Thế nhưng, có thể nói, tác phẩm<span style="font-style:italic;"> Magma: không cần dỗ giấc</span> của Sue Hajdu chính là một trong những tác phẩm nghệ thuật đương đại hiếm hoi thực hiện tại Việt Nam tránh được cả hai nguy cơ kể trên.<br /><br />Thông qua việc sử dụng chất liệu, không gian, thời gian và công nghệ một cách chính xác và hợp lý, thông qua việc cung cấp cho tác phẩm một bộ khung xương ý niệm sắc rõ, cũng như thông qua việc tạo cho tác phẩm một góc nhìn nhiều chiều mở ra với mọi diễn giải, mọi cách đọc, tác phẩm này rõ ràng đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong hành trình nghệ thuật của Sue Hajdu.<br /><br />Và có lẽ, thậm chí cũng không hề quá lời chút nào khi cho rằng tác phẩm này đã ghi một dấu mốc rất quan trọng trên mặt bằng nghệ thuật đương đại tại Việt Nam trong khoảng (ít nhất là) 5 năm trở lại đây.<br /><br />------<br /><br />(1)John Gage, <span style="font-style:italic;">Colour and Meaning, Art, Science and Symbolism</span>, Thames and Hudson, 2002<br /><br />(2) Arthur C. Danto, <span style="font-style:italic;">Encounters & Reflections, Art in the Historical Present</span>, The Noonday Press Farrar Straus Giroux, New York, 1991<br /><br />(3) Arthur C. Danto, <span style="font-style:italic;">sđd</span>.<br /><br />(4) Jean Baudrillard, <span style="font-style:italic;">The Consummer Society</span>, SAGE Publications, 1999<br /><br />(5)John Gage, <span style="font-style:italic;">sđd.</span><br /><br />(6) Nhìn từ góc độ từ nguyên, có một vài ý kiến cho rằng từ "Kitsch" có lẽ bắt nguồn từ chữ "Keetcheetsya" của Nga, với ý nghĩa "ngạo mạn và rỗng tuyếch", tuy thế, phần lớn ý kiến còn lại lại cho là khái niệm này xuất hiện lần đầu tiên tại hội chợ nghệ thuật Munich vào năm 1860, khi từ "Kitsch" được sử dụng để diễn tả những bức tranh giá rẻ hay các "sketches" (các bức vẽ phác). (Chữ tiếng Anh “sketches”, được phát âm bởi người Đức, hay là sự nuốt nguyên âm của một động từ tiếng Đức "Verkitchen", có nghĩa là "hạ giá"), Sam Binkey, <span style="font-style:italic;">Gale Encyclopedia of Popular Culture</span> <br /><br />(7)Clement Greenberg,<span style="font-style:italic;"> “Avant Garde and Kitsch” </span><br /><br />(8)Sam Binkey, <span style="font-style:italic;">bài đã dẫn.</span><br /><br />(9)Jean Baudrillard, <span style="font-style:italic;">sđd.</span><br /><br />(10)<span style="font-style:italic;">Sđd.</span><br /><br />(11)Hermann Broch: <span style="font-style:italic;">“Einige Bermerkungen zum Problem des Kitsches”</span> in <span style="font-style:italic;">Gesammelte Werke</span>, vol. 6, <span style="font-style:italic;">Dichten und Erkennen</span>, Zürich: Rhein, 1955. Translated as <span style="font-style:italic;">“Notes on the Problem of Kitsch”</span> in <span style="font-style:italic;">Kitsch: the World of Bad Taste,</span> edited by G. Dorfles, 49-76. New York: Univer Books, 1969.<br /><br />(12)Sam Binkey, <span style="font-style:italic;">bài đã dẫn.</span><br /><br />(13)Có lẽ cũng thú vị nếu trích ra đây một đoạn ngắn trong bài viết “Avant Garde and Kitsch" (Tiền phong và cái rởm, bài đã dẫn) của Clement Greenberg: <span style="font-style:italic;">“Ngày nay, ở nơi nào thể chế chính trị thiết lập một chính sách văn hóa chính thống, thì ở nơi đó nó tìm kiếm sự mị dân. Nếu như hiện cái rởm đang là xu hướng chính thống của văn hóa tại Đức, Ý và Nga (thời điểm năm 1939), thì hoàn toàn không phải vì chính phủ ở mỗi quốc gia đó được cầm quyền bởi những kẻ Philistine, mà bởi cái rởm đang chính là thứ văn hóa đại chúng tại những nơi đó. Sự cổ vũ cho cái rởm (của chính phủ) đơn thuần chỉ là một trong những phương cách dùng để thu phục nhân tâm…”</span><br /><br />(14)Không phải ngẫu nhiên mà tại một số quốc gia và chính thể cổ vũ cho nền thẩm mỹ Kitsch, dạng nghệ thuật tiền phong (mà một hình ảnh của nó được thể hiện trong hội họa qua phong cách trừu tượng) là dạng nghệ thuật bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, về vấn đề này, theo Greenberg: <span style="font-style:italic;">“Trên thực tế, rắc rối chính của văn chương và nghệ thuật tiền phong… không phải vì chúng mang tính phê phán, mà là vì chúng quá “vô can" (innocent) – và do đó, thật quá khó khăn để đưa vào đó các hiệu quả tuyền truyền cổ động, trong khi đó, cái Kitsch lại quá dễ ăn nhời với mục đích này…”</span><br /><br />(15)Sam Binkey, trong bài viết đã dẫn, phân tích về mô hình hình thành của dạng Kitsch này như sau: <span style="font-style:italic;">"Vào khoảng giữa thế kỷ 19, những phát kiến mang tính máy móc trong việc sản xuất, phân bố cũng như bán lẻ hàng hóa thương mại, cùng với xu hướng đô thị hóa đã làm cho những sản phẩm tạo chế mang mầu sắc văn hóa số đông có thể tới được với mọi người. Tại Âu châu và Bắc Mỹ, vị thế bề trên của tầng lớp tăng lữ đã buộc phải chấm dứt bởi những biến chuyển về mặt kinh tế đã tạo ra một tầng lớp trung lưu mới mẻ và đông đúc tại các thành thị. Những nông dân và công nhân truyền thống với niềm tin vào các hình thái văn hóa có tính chất xưa cũ, quê mùa, và bản địa đã tìm mua những đồ nữ trang, đồ trang trí, và các tượng nhỏ lòe loẹt rẻ tiền để trang hoàng cho các căn phòng của họ nơi thành phố. Với thu nhập đủ xài và thời gian rỗi đủ để sử dụng, tầng lớp lao động thành thị mới mẻ này đã cố gắng tìm kiếm sự giải trí và vui chơi cho mình, nhưng quan trọng hơn cả, là họ đã muốn tạo nên một vị thế mới cho bản thân họ như những kẻ có văn hóa, những kẻ thạo đời, thông qua việc trưng khoe cái khiếu thẩm mỹ của họ đối với những "đồ vật đẹp đẽ". Những lao động bậc thấp này kéo bầy theo sau những món vật xa xỉ được tạo sản ra cho khối lượng lớn, đặc biệt, thường là những sản phẩm xa xỉ giả tác giá rẻ, những món vật "mỹ thuật" được tạo chế một cách thô vụng và nhanh tiện để cho giống với những sản vật sang trọng, đẹp khéo và cao cấp của giới thượng lưu cũ: đồ gỗ mạ vàng, chuỗi hạt kim cương thủy tinh, đèn nến chạm trổ, tranh giả, những bản sao của các tượng hay đồ gốm cổ cũng như các đồ trang hoàng tiền sảnh theo nghĩa tạo ra được thật nhiều hiệu quả mà không phải tốn quá nhiều tiền bạc hay công sức. Vào thời điểm các xã hội đang bắt đầu quá trình công nghiệp hóa, cũng là thời điểm vô số người đang bắt đầu làm quen với những sản vật của một nền văn hóa đại chúng mới, Kitsch đã xuất hiện như thể mẫu số văn hóa chung thấp nhất của xã hội hiện đại, vượt xa mọi sự phân định của các giai cấp cũ bằng những kỹ năng tiêu thụ mang tính đại chúng (mass consumption) mới mẻ. Và bởi các nguyên nhân vừa nêu, sự nổi lên một cách rộng rãi của cái Kitsch thường bị quy lỗi cho sự xói mòn của "nền văn hóa cao cấp" (high-culture) có tính chất chuyên tinh (elite), sự tiêu vong của nền văn hóa dân gian "folk culture" mang tính địa phương, và sự "đần hóa" (dumbing down) mà các xã hội hiện đại mang tới…”</span><br /><br />(16)Kristine Stiles, <span style="font-style:italic;">Themes in Contemporary Art</span>, edited by Gill Perry and Paul Wood, Yale University Press 2004, chapter 5; Eye/Oculus: performance, installation and video<br /><br />(17)<span style="font-style:italic;">Sđd</span>.<br /><br />(18)<span style="font-style:italic;">Sđd.</span><br /><br />(19 )Năm phạm trù đó là: 1. Vượt thoát (escape), 2. Tác giả và định chế (author and institution), 3. Trao đổi và tương tác (exchange and interaction), 4. Thời gian và tự sự (time and narrative), 5. Sự tham gia của công chúng (the body of audience). <span style="font-style:italic;">Installlation Art in the New Millenium</span>, Nicolas De Olivera, Nicola Oxley, Michael Petry, Thames & Hudson, Ltd, London, 2003<br /><br />(20 )Người ta có thể nhìn thấy nét tương đồng nào đó trong tác phẩm của Sue Hajdu với tác phẩm, cũng thuộc phạm trù vượt thoát, của nghệ sĩ Hàn Quốc Lee Bul, mang tên<span style="font-style:italic;"> “Gravity Greater Than Velocity II” </span>(Trọng lực lớn hơn tốc lực II), 1999. Tác phẩm bao gồm ba “karaoke pods” (ba phòng hát karaoke nhỏ chỉ đứng vừa một người), được lắp đặt màn hình video và danh mục các bài hát thích hợp thuộc một chủ đề cụ thể nào đó. Trong tình trạng riêng tư của phòng karaoke cách âm tuyệt đối, được thiết kế hoàn hảo, công chúng tham dự đã được cung cấp một cơ hội hưởng thụ màn trình diễn của cá nhân mình,<span style="font-style:italic;"> Installlation Art in the New Millenium</span>, <span style="font-style:italic;">Sđd.</span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-41817578404859319732012-02-04T03:12:00.001-08:002012-05-04T07:08:00.868-07:00Wislawa Szymborska | Sự tiết lộ (Như Huy dịch)Chúng mình ở đây <br />Hai tình nhân trần trụi<br />Tuyệt đẹp trong nhau, và <br />thế là quá đủ<br />Hàng lông-mi-như-lá-rợp, <br />Là thứ duy nhất phủ đậy đôi thân<br />Giữa đêm sâu, em với anh<br />yên nằm<br /><br />Nhưng <br />chúng biết chuyện đôi mình <br />cả đấy<br />Bốn góc nhà biết, <br />Cái ghế cạnh giường biết<br />Những bóng đổ lô xô kia biết<br />Thậm chí <br />Cái bàn cũng biết<br />Nhưng chẳng nói ra thôi <br /><br />Đến mấy tách uống trà còn thậm rõ<br />vì sao trà nguội <br />Còn cụ Swift hẳn nói được vì sao <br />Sách cụ viết bị ngưng đọc dở chừng<br /><br />Thậm chí lũ chim kia<br />đã biết<br />Vì em nhác thấy<br />giữa trời xanh<br />Chúng dám viết rành rành và trâng tráo<br />tên anh<br />Cái tên em thường gọi <br /><br />Cây cối ư? <br />Anh sẽ giải thích sao đây?<br />Trước những tiếng rì rầm không dứt <br />của chúng?<br />Thậm chí có thể <br />cả gió cũng biết rồi, anh bảo<br />Vì sao chúng biết ư?<br />Ta nào rõ vì sao<br /><br />Nhưng lạ lùng nhất <br />sau mấy tấm rèm<br />Một con bướm đêm đang dập dờn<br />Đập cánh<br />Đường lượn của nó <br />cứ lặng lẽ <br />vẽ nên một hình thù dai dẳng<br /><br />Phải chăng<br />Với sự tinh tường bẩm sinh của loài côn trùng<br />nó đã thấy được điều mà mắt anh với em <br />chẳng thấy<br />Đó là: Trái tim chúng ta ngời rạng trong đêm<br />Điều em không sao hiểu được <br />Và điều <br />chẳng bao giờ anh có thể gọi tên<br /><br /><br />-----<br /><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/-_xOwu_IMLic/Ty0Uib_BbwI/AAAAAAAABjk/gcWSutJvYAY/s1600/mitford_img_assist_custom.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 225px; height: 246px;" src="http://2.bp.blogspot.com/-_xOwu_IMLic/Ty0Uib_BbwI/AAAAAAAABjk/gcWSutJvYAY/s320/mitford_img_assist_custom.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5705238884808486658" /></a><br />Wisława Szymborska (2 July 1923 – 1 February 2012) <br /><br />Xem thêm: <span style="font-weight:bold;"><a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/02/wislawa-szymborska-ky-chuyen-giao-nhu.html">Thế kỷ chuyển giao</a></span>, và <span style="font-weight:bold;"><a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/02/wislawa-szymborska-su-tra-tan-nhu-huy.html">"sự tra tấn"</a></span><br /><br />Dịch từ bản dịch tiếng Anh <span style="font-weight:bold;"><a href="http://www.theatlantic.com/past/docs/unbound/poetry/antholog/szymbors/openness.htm">"Openess"</a></span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-89452696763464161082012-02-03T10:28:00.000-08:002012-02-04T18:38:32.302-08:00Wislawa Szymborska | Thế kỷ chuyển giao (Như Huy dịch)Được dự đoán là sẽ hay ho hơn các thế kỉ khác, thế kỉ 20 của chúng ta<br />Song thời gian để chứng minh giả định này <br />đã hết<br />Năm tháng thế kỉ đã tận kiệt<br />Bước chân thế kỉ đã chuệnh choạng<br />Hơi thở thế kỉ đã đứt quãng <br /><br />Quá nhiều điều không định trước đã xảy ra<br />Và đã chẳng xảy ra những điều từng định trước<br />như là <br />Mùa xuân tới,<br />cùng hạnh phúc, và bao điều khác nữa<br />Nỗi sợ hãi phải rời khỏi các núi đồi và thung xa<br />Sự-thật phải cán đích trước dối trá<br /><br />Những sự bất hạnh nào đó<br />Như cơn đói, chiến tranh, vân vân, và vân vân<br />Phải không được lặp đi lặp lại<br /><br />Sự không-tự-vệ nơi những kẻ-không-tự-vệ<br />Cũng như lòng tin cậy, và những điều tương tự thế<br />Phải được tôn vinh<br /><br />Song,<br />vẫn là nhiệm vụ bất khả thi<br />Cho những ai muốn yêu thương thế giới <br /><br />Sự ngu dốt đã chẳng nực cười<br />Sự minh triết đã chẳng hóm-vui<br /><br />Hy vọng <br />tiếc thay,<br />đã hết mang hình hài em gái thơ ngây <br />Vân vân và vân vân.<br /><br />Thượng đế, lẽ ra, rốt cuộc đã phải tin vào con người:<br />Thiện hảo và mạnh mẽ,<br />nhưng thiện hảo và mạnh mẽ vẫn cứ là hai kẻ<br />khác nhau<br /><br />Biết sống sao đây? qua thư, có người muốn hỏi<br />Nhưng chẳng phải <br />người gửi thư cũng chính là người <br />tôi từng muốn hỏi y như vậy <br />đó sao?<br /><br />Một lần nữa, giống mọi khi<br />Như trên cho thấy<br />Chẳng câu hỏi nào khẩn cấp cho bằng<br />Các câu-Hỏi-Đơn-Sơ<br /><br /><br />------<br /><br />xem thêm bài: <span style="font-weight:bold;"><a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/02/wislawa-szymborska-su-tra-tan-nhu-huy.html">"Sự tra tấn"</a></span>, và <span style="font-weight:bold;"><a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/02/wislawa-szymborska-su-tiet-lo-nhu-huy.html">"Sự tiết lộ"</a></span><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/-eL1UlTeS97Y/Ty3rk8vXTgI/AAAAAAAABjw/Tp52ngZpdxM/s1600/tumblr_l798nncpCJ1qzdwano1_400.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 245px;" src="http://2.bp.blogspot.com/-eL1UlTeS97Y/Ty3rk8vXTgI/AAAAAAAABjw/Tp52ngZpdxM/s320/tumblr_l798nncpCJ1qzdwano1_400.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5705475322960891394" /></a><br />Wisława Szymborska (2 July 1923 – 1 February 2012) <br /><br /><br />Dịch theo bản tiếng Anh <span style="font-style:italic;">"The turn of century"</span> của Joanna Maria Trzeciak<br /><span style="font-weight:bold;">Nguồn:</span> <a href="http://www.pan.net/trzeciak/">http://www.pan.net/trzeciak/</a>, với sự hiệu đính của Thái Linh từ bản gốc tiếng Ba LanAnonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-46800702381250270142012-02-02T11:47:00.000-08:002012-02-04T03:26:36.250-08:00Wislawa Szymborska | Sự tra tấn (Như Huy dịch)Chẳng có gì thay đổi <br />Thân thể nhạy đau<br />phải ăn, hít thở và ngủ<br />Nó có lớp da mỏng, với mạch máu ngay dưới đó<br />Một số lượng răng và móng tay đầy đủ <br />Các khớp có thể dãn co, xương giòn dễ vỡ<br />Khi tra tấn, tất cả những yếu tố này sẽ được cân đo<br /><br />Chẳng có gì thay đổi <br />Thân thể rung lên, như từng rung lên <br />trước khi thành <br />Roma khởi dựng, và cả sau đó nữa, <br />trong thế kỷ 20 này, trước và cả sau ngày sinh của Chúa<br />Sự tra tấn đã và vẫn luôn thế, <br />Chỉ khác là, trái đất nay đã nhỏ bé hơn,<br />Và bất kể điều gì xảy ra, đều có vẻ như là:<br />việc-không-dính-líu-đến-ta<br /><br />Chẳng có gì thay đổi. Chỉ khác là ngày nay dân số đông hơn<br />Đã có thêm những kiểu tra tấn tân kì, bên những lối ra đòn cũ<br />Thực sự, tưởng tượng, tạm thời, hay không gì cả<br />Nhưng <br />Tiếng thét đau khi thân thể dính đòn <br />đã và mãi luôn là thanh âm của sự vô tội, theo điệu tính và âm giai <br />đáng-kính-già-nua<br /><br />Chẳng có gì thay đổi, có lẽ, chỉ trừ lệ bộ, lễ nghi hay điệu vũ<br />Song chuyển động của đôi tay đưa lên ôm đầu <br />thì vẫn như xưa <br />Thân thể quại quằn, rung giật, co rúm lại<br />Đôi chân kiệt quệ, sụp khuỵ, hai đầu gối tung lên<br />tím ngắt sưng to, <br />máu hoà dãi nhớt<br />Thì vẫn như xưa<br /><br />Chẳng có gì thay đổi. Ngoại trừ các biên giới<br />Cái dải rừng, bờ biển, sa mạc và các sông băng<br />Giữa những phong cảnh này, một linh hồn nhỏ đang phiêu dạt<br />Khi chìm khuất, khi hiện về, khi tới gần, khi nhoà hút<br />ly biệt bản thân, và luôn lảng tránh<br />khi mờ khi tỏ với hiện hữu của chính mình.<br />Để mặc thân thể kia <br />vẫn đang có đó <br />có đó, <br />và có đó<br />nhưng<br />Không-tìm-đâu-ra-trú-sở<br /><br /><br />xem thêm bài <span style="font-weight:bold;"><a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/02/wislawa-szymborska-ky-chuyen-giao-nhu.html">"thế kỉ chuyển giao"</a></span>, và <span style="font-weight:bold;"><a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/02/wislawa-szymborska-su-tiet-lo-nhu-huy.html">"Sự tiết lộ"</a></span><br /><br /><span style="font-weight:bold;">Nguồn: </span><a href="http://www.poemhunter.com/poem/tortures/">http://www.poemhunter.com/poem/tortures/</a><br /><span style="font-style:italic;">(dịch ngày mùng 1 tháng Hai 2012)</span><br /><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/-H8fSO7Ek1hQ/TyrqfYBAjOI/AAAAAAAABjI/fCGioUTNqB0/s1600/6a00e39337e0ce88340133f4140a40970b-800wi.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 252px; height: 320px;" src="http://2.bp.blogspot.com/-H8fSO7Ek1hQ/TyrqfYBAjOI/AAAAAAAABjI/fCGioUTNqB0/s320/6a00e39337e0ce88340133f4140a40970b-800wi.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5704629702761680098" /></a><br /><span style="font-style:italic;">Người hóm Wislawa Szymborska (1923 –2012)</span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-70796934126384681022012-01-30T20:58:00.000-08:002012-01-30T21:48:21.930-08:00(chuyên đề giám tuyển) 10 GIÁM TUYỂN, 100 NGHỆ SĨ ĐƯƠNG ĐẠI, 10 NGHỆ SĨ NGUỒN (KỲ3)<span style="font-weight:bold;">Lời người dịch </span><br /><br /><span style="font-style:italic;">Bài dịch dưới đây được dịch từ cuốn <span style="font-weight:bold;">Kem lạnh: 10 giám tuyển, 100 nghệ sĩ đương đại, 10 nghệ sĩ nguồn [Ice Crem, 10 curator, 100 contemporary artists, 10 source artist] </span>do Nhà xuất bản <span style="font-style:italic;">Phaidon</span> xuất bản năm 2008. Bài dịch này là cuộc trao đổi giữa 10 giám tuyển trong số các giám tuyển quan trọng nhất hiện nay trên thế giới, về các chủ đề như vai trò và nhiệm vụ của giám tuyển, áp lực thị trường, cuộc đối đầu giữa định chế và các khu vực ngoại biên, cũng như về chính các thay đổi trong thực hành giám tuyển thế giới. Trong vai trò là một nghệ sĩ và giám tuyển độc lập, tôi hy vọng cuộc trao đổi này sẽ giúp cung cấp cho bạn đọc, nhất là các bạn đọc là công chúng tại Việt Nam, một “lát cắt” thông tin, dẫu không hoàn toàn đầy đủ, song cũng khá bao quát về, các vấn đề của thực hành giám tuyển, của nghệ thuật nói chung trên thế giới hiện nay.</span><br /><br />Như Huy<br /><br />---------<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Tiểu sử các giám tuyển tham gia vào cuộc thảo luận</span><br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Sergio Edelstein</span> </span><br /><br />Sáng lập Trung tâm Nghệ thuật Đương đại Tel Aviv năm 1995, ở đó, từ năm 1997, ông đã giám tuyển 5 biennial về nghệ thuật trình diễn và 2 biennial quốc tế về nghệ thuật video, có tên là<span style="font-style:italic;"> “Video Zone”</span>. Năm 1987, ông sáng lập <span style="font-style:italic;">Artifact Gallery</span>, Tel Aviv, nơi ông nhận lãnh vai trò giám đốc cho tới năm 1995. Từ năm 1995, ông đã giám tuyển vô số triển lãm video, các triển lãm hồi cố, các sự kiện trình diễn và các biennial, bao gồm Khu vực dành cho Israel tại<span style="font-style:italic;"> Venice Biennale (2005)</span>. Edelstein đã giảng dạy, dàn dựng các chương trình chiếu video và xuất bản trước tác ở nhiều quốc gia vòng quanh thế giới, trong đó bao gồm Israel, Tây Ban Nha, Brazil, Ý, Áo, Đức, Mỹ và Argentina.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Jens Hoffmann</span> </span><br /><br />là một giám tuyển và cây viết về nghệ thuật có xuất xứ từ San Francisco, là nơi ông giữ chức giám đốc <span style="font-style:italic;">CCA Wattis Institute</span>. Ông là giám đốc triển lãm tại <span style="font-style:italic;">Viện Nghệ thuật Đương đại London</span> và là thành viên bộ môn của chương trình nghiên cứu giám tuyển tại <span style="font-style:italic;">Trường Goldsmith</span>, Đại học London cho tới cuối năm 2006. Từ năm 1998, ông đã giám tuyển rất nhiều triển lãm quốc tế cũng như viết hàng trăm bài viết về nghệ thuât thị giác và thực hành giám tuyển cho các ấn phẩm bảo tàng xuất bản và các tạp chí nghệ thuật. Ông đã tổ chức vô số triển lãm nhóm, trong đó bao gồm <span style="font-style:italic;">“Những sự chọn lựa ưa thích của nghệ sĩ”</span>, phần 1 và phần 2 (2004), <span style="font-style:italic;">“100 artistss See God”</span> [“100 nghệ sĩ thấy Chúa”] (2004-5) và <span style="font-style:italic;">“Tino Sehgal”</span> (2005, 2006 và 2007).<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Lisette Lagnado </span></span><br /><br />Là trưởng ban giám tuyển của <span style="font-style:italic;">Biennial São Paolo </span>lần thứ 27 (2006) và tham gia làm việc cho triển lãm <span style="font-style:italic;">Documenta</span> lần thứ 12 (2007), năm 1993, bà sáng lập <span style="font-style:italic;">Projecto Leonilson</span> và xuất bản <span style="font-style:italic;">Leonilson, São tantas as verdades</span>. Bà đã là đồng giám tuyển triển lãm <span style="font-style:italic;">“Antartica Artes com a Folha”</span> (1996), một triển lãm lập đồ bản cho nghệ thuật của Brazil, và là giám tuyển triển lãm <span style="font-style:italic;">“Special Hall”</span> [Phòng trưng bày đặc biệt] tôn vinh Iberê Camargo tại <span style="font-style:italic;">Biennial do Mercosul</span> lần thứ 2 (1999), cũng như là đồng điều hành website <span style="font-style:italic;">Programa Hélio Oiticica</span>. Từ 2001, bà là biên tập viên của tạp chí <span style="font-style:italic;">online Trópico</span>. Bà có bằng tiến sĩ triết học của Đại học São Paolo.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Midori Matsui </span></span><br /><br />là một phê bình gia nghệ thuật và học giả từng viết rất nhiều về văn hóa nghệ thuật của Nhật Bản và phương Tây cho nhiều tạp chí định kỳ và catalogue khác nhau, bao gồm <span style="font-style:italic;">Little Boy; The Arts of Japan’s Exploding Subculture</span> [Cậu nhóc: Nghệ thuật về trào lưu văn hóa bên lề đang bùng nổ của Nhật Bản] (2005), <span style="font-style:italic;">Japan Society</span>, New York [Hiệp hội Nhật bản New York]; <span style="font-style:italic;">Public Offering</span> [Sự đề nghị công khai] (2001), <span style="font-style:italic;">Musem of Contemporary Art</span> [Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại] và<span style="font-style:italic;"> Geffen Contemporary</span>, Los Angeles; <span style="font-style:italic;">Painting at the Edge of the World</span> [Hội họa ở nơi tận cùng thế giới] (2001) Walker Arts Center [Trung tâm nghệ thuật Walker], Mineapolis;<span style="font-style:italic;">Takashi Murakami: The Nonsense of the Meaning of the Nonsense</span> [Takashi Murakami; Sự bất tri nơi nghĩa của sự bất tri] (2000), do Harry N Abrams xuất bản và <span style="font-style:italic;">Art in a New World; Post-Modern Art in Perspective</span> (2000) [Nghệ thuật trong một thế giới mới; Nghệ thuật hậu hiện đại nhìn trong phối cảnh], do Asahi Press xuất bản. Matsui hiện đang giảng dạy về nghệ thuật hậu hiện đại và lý thuyết tại đại học nghệ thuật Tama, Yokohama. Bà là giám tuyển của triển lãm <span style="font-style:italic;">“The Door into Summer: The Age of Micropop”</span> [Cánh cửa vào mùa hạ; kỷ nguyên của pop –vi mô] (2007, tại Art Tower Mito [Tháp nghệ thuật Mito], Nhật Bản.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Shamim M. Momin</span> </span><br /><br />là giám tuyển cộng tác tại Bảo tàng Whitney về nghệ thuật Mỹ, giám đốc chi nhánh và giám tuyển của Bảo tàng Whitney tại Altria, New York. Ngoài công việc đồng giám tuyển cho Whitney Biennial (2004), bà còn coi sóc <span style="font-style:italic;">“Loạt triển lãm đương đại”</span> [The Contemporary Series] và mới đây đã tổ chức các triển lãm cá nhân <span style="font-style:italic;">“Banks Violette” </span>(2005), <span style="font-style:italic;">“Raymond Pettibon” </span>(2005-6) và <span style="font-style:italic;">“Mark Grotjahn”</span> (2006-7) cho dự án này. Bà là tác giả cho các catalogue của những cuộc triển lãm tại Whitney cũng như thường xuyên viết cho các ấn phẩm nghệ thuật khác. Bà tham gia vào rất nhiều hội đồng và các cuộc thảo luận bàn tròn và thường là giám tuyển và phê bình gia nghệ thuật khách mời tại các trường nghệ thuật, các chương trình thường trú nghệ thuật và các đại học. Mới đây nhất, bà là giáo sư thỉnh giảng cho chương trình thạc sĩ cao cấp của Đại học New York.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Pili </span></span><br /><br />là giảng viên tại học viện mỹ thuật trung tâm và giám tuyển tại không gian phương tiện mới Loft, Bắc Kinh. Ông đồng điều hành <span style="font-style:italic;">“Between Past and Future; New Photography and Video from China</span> [Giữa quá khứ và tương lai; nhiếp ảnh và Video mới từ Trung Hoa], một triển lãm được thực hiện liên kết với Freewaves, được đồng giám tuyển bởi Wu Hung và Christopher Phillips. Ông còn là giám tuyển cho triển lãm lưu động <span style="font-style:italic;">“Under Constructuon”</span> [Phía dưới cấu trúc], tức một triển lãm đi vòng quanh các quốc gia châu Á từ 2001 đến 2003, là trợ lý giám tuyển cho khu vực Trung Hoa tại Biennial São paolo lần thứ 25 92002), là giám tuyển cho Biennale Thượng Hải (2002) và cho triển lãm <span style="font-style:italic;">“Allors la Chine” </span>(2003), tại trung tâm nghệ thuật Pompidu, Paris. Vào năm 2005, Pili và Waling Boers, từ Gallery Büro Friederich tại Berlin, sáng lập <span style="font-style:italic;">Gallery xưởng làm việc quốc tế độc lập</span> [Independent Universal Studo Gallery] tại Bắc Kinh. Ông cũng là giám tuyển cho một khu vực trong triển lãm <span style="font-style:italic;">China Power Station</span>; phần 1, là dự án của gallery Serpentine tại Battersea Power Station, London.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Gloria Sutton </span></span><br /><br />từng là thành viên thuộc <span style="font-style:italic;">Quỹ Helena Rubinstein</span> về nghiên cứu phê phán tại chương trình nghiên cứu độc lập thuộc Bảo tàng Whitney về Nghệ thuật Mỹ và hiện đang hoàn tất bằng tiến sĩ lịch sử nghệ thuật tại Đại học California, Los Angeles, cũng là nơi bà viết một luận án về Thực hành điện ảnh mở rộng của thập kỷ 60. Bà là thành viên sáng lập và hiện thuộc ban giám đốc của <span style="font-style:italic;">Rhizome.org</span>. Trong vai trò người nhận học bổng giám tuyển Ahmanson tại bảo tàng nghệ thuật đương đại Los Angeles, bà đã giám tuyển triển lãm <span style="font-style:italic;">“MOCA Focus: Karl Haendel”</span> và là trợ lý giám tuyển của triển lãm <span style="font-style:italic;">“Ecstasy: In and About Altered States” </span>[Mê ngất: Trong và về các biến trạng]. Mới đây bà đã xuất bản cuốn sách <span style="font-style:italic;">Future Cinema: The Cinematic Imaginary After Film</span> [Tương lai của điện ảnh: Sự tưởng tượng thuần túy điện ảnh thời hậu làm phim], do MIT Press xuất bản.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Olesya Turkina </span></span><br /><br />là một phê bình gia nghệ thuật và giám tuyển. Các dự án trước đây của bà bao gồm Khu vực nước Nga tại Vinice Biennale lần thứ 48 (1999) và bà cũng là đồng giám tuyển của triển lãm <span style="font-style:italic;">“Kabinet”</span>, Stedelijk Museum, Amsterdam. Olesya Turkina là thành viên nghiên cứu cao cấp tại ngành nghệ thuật đương đại thuộc Bảo tàng Quốc gia Nga, St. Petersburg. Bà từng viết cho các tạp chí như <span style="font-style:italic;">Flash Art</span> và <span style="font-style:italic;">Moscow Art Magazines</span>, và là một biên tập viên của tạp chí nghệ thuật online <span style="font-style:italic;">Contemporary Russian Art Newsletter</span> [Tin tức về nghệ thuật đương đại Nga]. Cùng với việc là thành viên <span style="font-style:italic;">Liên đoàn Không gian Nga</span> [Russian Space Federation], là nơi mà bà cống hiến rất nhiều sức lực, trong khoảng vài năm nay, bà cũng làm việc cho một loạt triển lãm về điện ảnh có tên <span style="font-style:italic;">“The Chain of Flowers”</span> [Chuỗi hoa] cộng tác với <span style="font-style:italic;">Bảo tàng Công nghệ kỷ Jura</span> [Museum of Jurrassic Technology], Los Angeles.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Philippe Vergne </span></span><br /><br />là trưởng ban giám tuyển và phó giám đốc <span style="font-style:italic;">Trung tâm Nghệ thuật Walker</span> [Walker Art Center], Mineapolis. Ông là đồng giám tuyển <span style="font-style:italic;">Whitney Biennial (2006)</span> với Chrissie Lies và là giám đốc <span style="font-style:italic;">Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Marseille</span> từ 1994 tới 1997. Ông là giám tuyển triển lãm lưu động và hồi cố đầu tiên của nghệ sĩ Trung Hoa Huang Yong Ping (2005). Ông cũng đã giám tuyển vô số các triển lãm dạng chuyên khảo khác trong thời kỳ làm việc tại <span style="font-style:italic;">Trung tâm Nghệ thuật Walker</span>, bao gồm <span style="font-style:italic;">“Cameron Jamie” </span>(2006), và <span style="font-style:italic;">“Kara Walker” </span>(2007). Ông từng viết cho rất nhiều tạp chí định kỳ như<span style="font-style:italic;"> Artforum</span>, <span style="font-style:italic;">Parkett</span> và <span style="font-style:italic;">Asia Pacific Magazine</span>.<br /><br /><span style="font-style:italic;">T<span style="font-weight:bold;">he Wrong Gallery</span><br /></span><br /><br />Vào năm 2002, Nhóm của nghệ sĩ Maurizio Cattelan, giám tuyển Massimiliano Gioni, biên tập viên và giám tuyển Ali Subotnick đã thành lập <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span>, là một không gian triển lãm rất nhỏ theo hình một cửa ra vào rộng một mét vuông tại Chelsea, quận nghệ thuật của New York. <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery </span>bị trục xuất khỏi không gian đó vào mùa Xuân năm 2005, và được đưa lại vào khu gallery của các bộ sưu tập thuộc bảo tàng tại <span style="font-style:italic;">Bảo tàng Nghệ thuật Tate Modern</span>, London. <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span> cổ vũ cho các các cuộc can thiệp bí mật cỡ nhỏ vào không gian công cộng và xuất bản <span style="font-style:italic;">The Wrong Times</span>, một tờ nhật báo đăng phỏng vấn của các nghệ sĩ từng triển lãm tại <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span>. Cattelan, Gioni và Subotnick gần đây đã trình bày triển lãm <span style="font-style:italic;">“Thất vọng vì luật pháp”</span>, một triển lãm trong vòng một ngày đêm tại<span style="font-style:italic;"> Whitney Biennale (2006)</span>. Nhóm giám tuyển ba người này đã giám tuyển <span style="font-style:italic;">biennial Berlin cho nghệ thuật đương đại</span> lần thứ 4, có tên là <span style="font-style:italic;">“Của Chuột và Người” (2006).</span><br />________________<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Lời giới thiệu:</span> Theo bước đi của <span style="font-style:italic;">Kem</span> [Cream] (1998), <span style="font-style:italic;">Kem tươi</span> [Fresh Cream] ( 2000) và <span style="font-style:italic;">Kem 3</span> [Cream 3] (2003), <span style="font-style:italic;">Kem lạnh: Nghệ thuật đương đại trong văn hóa</span> [Ice Cream: Contemporary Art in Culture] là một cuộc khảo sát toàn cầu về một số các nghệ sĩ đang-lên quan trọng nhất ngày nay. Với tập hợp của 100 nghệ sĩ được một nhóm 10 giám tuyển nổi tiếng thế giới tuyển lựa, cuộc triển lãm-trong-sách này sắm vai trò như một bản chỉ dẫn về các xu hướng nghệ thuật trong tương lai.<br /><br />10 giám tuyển quan trọng được Phaidon lựa chọn dựa vào tri thức, viễn kiến sắc sảo và quan điểm có tính phê phán của họ. Trước hết, mỗi giám tuyển sẽ đề cử 10 nghệ sĩ mà họ cảm thấy là đại diện tốt nhất cho lớp “váng kem” của nghệ thuật đương đại hiện tại. Sau đó, họ sẽ làm việc với các nghệ sĩ ấy để lựa chọn ra các tác phẩm tốt nhất và có tính tiêu biểu nhất của từng nghệ sĩ để đưa vào cuốn sách này. So với cả loạt sách, cuốn sách này có một sự phá cách mới mẻ khi nó đưa The Wrong Gallery vào vai trò một trong 10 giám tuyển. Khác với 9 giám tuyển còn lại, nhóm giám tuyển từ The Wrong Gallery chỉ lựa chọn các nghệ sĩ trên 60 tuổi mà gần đây tái xuất hiện trong ý thức của thế giới nghệ thuật đương đại. Sự giao cắt giữa các thế hệ này không thường thấy trong các cuốn sách tập trung vào các nghệ sĩ chưa nổi tiếng và nó sẽ đưa lại một độ sâu cũng như hương vị đặc biệt cho Kem lạnh.<br /><br />Cùng lúc ấy, <span style="font-style:italic;">Kem lạnh</span> cũng đề nghị một cái nhìn toàn cảnh vào khung cảnh đương đại toàn cầu hóa với tốc độ dần tăng. Hơn bao giờ hết, để hiểu được các phát triển cận thời nhất trong nghệ thuật, khả năng quan sát vượt khỏi các biên giới địa lý là vô cùng quan trọng, và các giám tuyển của <span style="font-style:italic;">Kem lạnh</span> đã sử dụng hiểu biết của họ về các khung cảnh thường nhật – ở đây bao gồm hơn hai tá quốc gia vòng quanh địa cầu – để tìm ra các nghệ sĩ đang-lên quan trọng nhất ngày nay, mà không đặt nặng vấn đề các nghệ sĩ đó chọn nơi đâu để thực hiện tác phẩm.<br /><br />Giống với <span style="font-style:italic;">Kem 3</span>, các giám tuyển cũng tuyển lựa thêm 10 nghệ sĩ nguồn [source artist] từ thế hệ trước, tức những người tạo ra ảnh hưởng và là nguồn cảm hứng cho cả họ lẫn các nghệ sĩ mà họ tuyển lựa vào đây. Sự thêm vào của các cái tên danh tiếng này sẽ cung cấp cho người đọc cơ hội phản tư vào tác phẩm của các nghệ sĩ đang-lên từ một điểm nhìn thuận lợi.<br /><br />Các sáng tạo khác trong cuốn sách này bao gồm những cách ứng phó dũng cảm trước thách thức của việc miêu tả các tác phẩm mà tự bản chất là có tính nhất thời và phù du. Ví dụ, Tino Sehgal là một nghệ sĩ lựa chọn cách không bao giờ chụp lại tác phẩm của mình, mà thích để mọi người trải nghiệm trực tiếp, hoặc chí ít, được nghe kể lại về chúng từ những người đã trải nghiệm trực tiếp. Để đưa được nghệ sĩ này vào cuốn sách, giám tuyển Jens Hoffmann đã phải tìm cách tạo ra các “văn bản/hình ảnh” miêu tả về các màn trình diễn của ông.<br /><br />Lẽ cố nhiên, người ta không thể mô phỏng được sự trải nghiệm nghệ thuật của mỗi cá nhân và không gì thay thế được việc xem nghệ thuật ngay trong văn cảnh thông thường của nó. Tuy nhiên, qua việc kết hợp nghệ thuật với các thông tin được thu thập qua hàng năm trời nghiên cứu khắp hoàn cầu, hy vọng <span style="font-style:italic;">Kem lạnh</span> sẽ cung cấp được một nguồn vốn phong nhiêu và súc tích để bạn đọc có thể nghiền ngẫm.<br /><br />--------<br /><br />Tiếp theo <span style="font-weight:bold;"><a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/01/chuyen-e-giam-tuyen-10-giam-tuyen-100.html">kì 1</a></span> và<span style="font-weight:bold;"> <a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/01/chuyen-e-giam-tuyen-10-giam-tuyen-100_26.html">kì 2</a></span><br /><br /><span style="font-weight:bold;">Jens Hoffmann</span><br /><br />Việc thực hành giám tuyển đã thay đổi trong hai mươi năm qua khó có thể là một tin sốt dẻo; sự kiện này đã được thảo luận rất kỹ lưỡng. Tôi chả thấy cần thiết phải thảo luận tiếp tục về nó. Cũng như thế, các nghệ sĩ đã từng đứng ra tổ chức triển lãm từ rất lâu và cũng chả có gì đặc biệt hay bất thường ở đây. Sự chuyển đổi trong thực hành giám tuyển là một kết quả từ mối quan hệ ngày càng gần gũi giữa nghệ sĩ và giám tuyển và từ việc các giám tuyển ứng dụng những thực hành của nghệ sĩ. Triển lãm “Các sự lựa chọn ưa thích của nghệ sĩ” chính là một tôn vinh dành cho các nghệ sĩ từng giám tuyển các triển lãm và là một sự công nhận về ảnh hưởng của nghệ sĩ lên thực hành giám tuyển. Cuộc thảo luận này diễn ra giữa các nghệ sĩ và giám tuyển, tức những người càng ngày càng đông đảo chiếm cứ các lãnh địa thực hành khác nhau và các văn cảnh kinh tế-xã hội đa dạng. Chính vì thế, có vẻ như sẽ là bất khả cho việc điều phối được một cuộc thảo luận trên một cấp độ rộng lớn như vậy. Trong phạm vi văn cảnh sát sườn của mình, tôi thấy sẽ là thích hợp hơn nếu chúng ta tìm cách phân tích sự thống trị dần tăng của thị trường trong mọi khía cạnh của việc sản tạo và trình bày nghệ thuật. Tuy nhiên, tôi mường tượng rằng, với các văn cảnh sát sườn khác, điều này có lẽ không được coi là một chủ đề tranh luận thích hợp.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Gloria Sutton</span><br /><br />Tôi biết ơn lý do cô đọng của Jens Hoffman cho việc chuyển hướng thảo luận. Song dẫu áp lực thị trường đang thống trị khoảnh khắc hiện tại theo cách không thể đo đếm, quyền lực thị trường đã lên ngôi từ đầu thập kỷ 60. Allan Kaprow từng đặt ra quan điểm này trong các trước tác quan trọng của mình, và dưới ánh sáng của việc đọc lại ông gần đây, tác phẩm của ông là thứ xuất hiện trước nhất trong tâm trí tôi. Ông khắc họa một cách thuyết phục về sự chuyển đổi từ “nghệ thuật” thành ra “dấn thân” [enterprise] trong bài tiểu luận<span style="font-style:italic;"> “Nghệ sĩ như một con người trong thế giới”</span> [the Artist as a man of the World] bằng cách nhấn mạnh rằng giờ đây, một cách dứt khoát, nghệ sĩ phải gánh lấy trách nhiệm.[1] Ông tiếp tục bằng một miêu tả về thế giới nghệ thuật của năm 1964 mà có vẻ như chả khác gì sự miêu tả về thế giới nghệ thuật của năm 2006: “Trên đường phố (các nghệ sĩ) trông chả khác gì giai cấp trung lưu vốn là nguồn gốc của họ và các định niệm của giai cấp ấy hiện lại chính là bản mẫu mà họ tìm cách học theo – tính thực tế, sự an toàn và sự tự cải tiến. Đời sống xã hội của họ luôn xoay quanh các khách hàng, bè bạn nghệ sĩ, và các nhà đại diện nghệ thuật, tức một đời sống xã hội tăng dần tính tiện lợi cho nghề nghiệp hơn là chỉ nhằm để vui hưởng. Và chính ở điểm này, họ trở nên giống với các nhân viên thuộc các ngành công nghiệp hay các khuôn phép khoa học nghệ thuật chuyên biệt khác tại nước Mỹ.” Điều quan trọng cần lưu ý ở đây không nhất thiết là về mối quan tâm trước sự nghề nghiệp hóa dần tăng của thế giới nghệ thuật, mà là – như Kaprow quan sát – về việc nghệ sĩ phải hoạt động trong phạm vi một phức hợp xã hội tinh vi mà tầm mức của nó ông mới chỉ bắt đầu hiểu ra.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/-Bqx0bkCE9oU/Tyd4Z-Z678I/AAAAAAAABhc/s3K-hud6Drs/s1600/7829_128797822263_668022263_2236920_5505428_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 300px; height: 267px;" src="http://3.bp.blogspot.com/-Bqx0bkCE9oU/Tyd4Z-Z678I/AAAAAAAABhc/s3K-hud6Drs/s320/7829_128797822263_668022263_2236920_5505428_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5703659840731803586" /></a><br />Allan Kaprow <br /><br />Ông đi đến một xác tín, nếu như chính trị học thuộc tầm mức toàn cầu hay quốc gia chỉ phục vụ cho tính tự phụ của các tay tài tử (theo kiểu tự phụ của dạng hội họa nghiệp dư “nghiêm túc”), chính trị học nghệ thuật không chỉ là thứ có thể có, mà còn nhất thiết phải có. Đây chính là phương tiện thuyết phục mới mẻ. Và sự thuyết phục ấy sẽ dẫn tới một xác nhận về “mối dây liên hệ của nghệ sĩ với thế giới.” Bởi vậy, nếu chúng ta mang đề nghị của Kaprow vào năm 2006, để nói về sự tiếp cận/mối quan tâm giám tuyển của tôi, định vị nó trong văn cảnh chính trị/xã hội cụ thể của ngày nay, thì đó không đơn giản chỉ là một cơ hội, mà còn là sự bắt buộc.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Jens Hoffmann</span><br /><br />Việc thị trường nghệ thuật đã có từ lâu là đúng, song việc cho rằng quyền lực do khu vực này khai triển chưa mạnh mẽ như hiện nay thì cần phải xem lại. Trong vai trò một giám tuyển làm việc cho định chế, tôi cảm thấy một phần nhiệm vụ của chúng ta là phải phân tích quyền lực này như bộ phận thuộc địa bàn làm việc đang hiện hữu của chúng ta chứ không nên chấp nhận các hiệu ứng của nó một cách chả băn khoăn gì. Tôi bị sốc bởi ảnh hưởng mà thị trường nghệ thuật gây ra trên chính tác phẩm của các nghệ sĩ, tức những người bị tác động sâu sắc bởi áp lực phải thỏa mãn quyền lực thị trường. Thử nghiệm của một nghệ sĩ như Kaprow sẽ không có chỗ trong khí hậu hiện tại của sự sản tạo nghệ thuật bị thúc đẩy bởi thương mại.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Gloria Sutton</span><br /><br />Cách Jens Hoffmann sử dụng từ “sốc” để miêu tả về thị trường là hoàn toàn chính xác. Đề cập của tôi về Kaprow không đơn thuần nói rằng chủ đề này đã luôn hiện hữu và cung cấp một lời xin miễn thứ hay sự nhận lỗi về mình [nguyên văn; mea culpa (tiếng Latin: lỗi tại tôi)] cho thế giới nghệ thuật. Song không chỉ các tác phẩm thử nghiệm của Kaprow sẽ không có chỗ ở thế giới nghệ thuật thương mại ngày nay, mà thậm chí cả ở thập kỷ 60 nó cũng không tồn tại được. Tôi không nghĩ là Kaprow từng sống được bằng việc bán tác phẩm; cho tới nay, chỉ duy nhất có một triển lãm hồi cố của ông vào năm 2007. Kaprow, cũng như nhiều nghệ sĩ khác, đã phải, và cũng chủ động chọn lựa việc luân chuyển ngoài hệ thống thương mại thống trội. Điều này không phải để gợi ý rằng không hề có một vài loại hình “phá cách” gắn kết với thị trường. Tôi cũng không cho rằng vấn đề ở đây chỉ đơn giản là chấp nhận hay không chấp nhận các hiệu ứng của thị trường. Sự phân biệt giữa những kẻ chọn lựa chủ động và những kẻ buộc phải luân chuyển phía ngoài hệ thống thương mại là rất phức tạp, bởi cả các chủ đề cụ thể về phương tiện lẫn các chủ đề về giống và chủng tộc. Chúng ta chỉ cần đọc trước tác của các nghệ sĩ khác nhau như Renée Green hay Martha Rosler là sẽ hiểu các lối ngả khác nhau mà chủ đề về sự lưu hành tác phẩm và sự tham dự hay không tham dự vào hệ thống thị trường có thể đặt ra.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/-RithKHtSabg/Tyd4qwD_UsI/AAAAAAAABho/R54UZrAw6oM/s1600/7829_128798432263_668022263_2236924_2757752_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 272px;" src="http://4.bp.blogspot.com/-RithKHtSabg/Tyd4qwD_UsI/AAAAAAAABho/R54UZrAw6oM/s320/7829_128798432263_668022263_2236924_2757752_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5703660128939496130" /></a><br />Tác phẩm <span style="font-style:italic;">16 đột biến trong 6 phần</span> [16 Happenings in Six Parts] của Allan Kaprow<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Lisette Lagnado<br /></span><br />Tôi đồng ý với Jens Hoffmann; việc thảo luận về sự thống trị của thị trường sẽ thích hợp hơn nhiều. Tôi đang tổ chức <span style="font-style:italic;">Biennial São Paolo</span> lần thứ 27 với Cristina Freire, Rosa Martinez, Adriano Pedrosa và Jochen Volz. Các gallery thương mại muốn được tổ chức một sự kiện đồng thời cho họ, đòi hỏi có được một trong những khu trưng bày tuyệt nhất tthuộc khu phức hợp Niemeyer của chúng tôi, chỉ cách vài mét với khu vực trưng bày của chúng tôi. Họ nói về sự không công bằng. Họ gọi khu trưng bày của họ là “tương đồng”, bởi họ cũng có một giám tuyển. Thật là một quan điểm nguy hiểm nếu để thị trường này hiện diện trong vai trò một sự sáp nhập vào khu trưng bày của chúng tôi. Mặc dù tôi có mối quan hệ tuyệt vời với các gallery và mặc dù tôi nhận thức rằng về mặt cơ bản họ là những kẻ hỗ trợ cho các nghệ sĩ, điều này vẫn trở thành chủ đề tranh biện giữa bí thư văn hóa của thành phố và tôi. Hàng tháng trời trong quỹ thời gian giám tuyển của tôi đã bị mất đi chỉ để dành cho việc tường giải với họ rằng tôi không thể chấp nhận sự tương đồng [về hình thức] này, bởi ngày nay các hội chợ nghệ thuật tốt nhất đều có mô hình giống các biennial; có hội thảo, phòng chiếu, v.v. và v.v. Và bởi tiêu đề dự án giám tuyển của tôi là “Làm thế nào để sống bên nhau” [How to live together] thế nên tôi thậm chí đã bị cảnh báo là không nên phản ứng với họ như thế.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Pili</span><br /><br />Buổi khai mạc triển lãm tại không gian mới xây của tôi, <span style="font-style:italic;">Universal Studios</span>, Bắc Kinh, diễn ra đồng thời với hội chợ nghệ thuật Bắc Kinh. Với những tin tức từ nhà <span style="font-style:italic;">Sotheby</span> về cuộc đấu giá nghệ thuật đương đại Trung Hoa tại New York, các nhà sưu tập và đại diện nghệ thuật đã đổ xô tới Bắc Kinh để tìm mua cái gọi là nghệ thuật đương đại Trung Hoa. Một nhà sưu tập đã rất giận dữ bởi chúng tôi đã trả lời rằng các tác phẩm của <span style="font-style:italic;">Universal Studios </span>là không phải để bán, và chúng tôi là một không gian phi lợi nhuận. Ông này đã nghĩ chúng tôi nói dối! Đây chính là ẩn dụ về cái văn cảnh nghệ thuật đương đại mà tôi nghiệm trải suốt một thập kỷ qua. Trung Hoa đã trải qua một lịch sử thay đổi với tốc độ chóng mặt. Chỉ mới mười năm trước không một ai sưu tầm nghệ thuật đương đại; giờ đây không một ai sưu tập nghệ thuật phi-đương đại. Khi tôi khởi nghiệp với nghệ thuật đương đại tại Trung Hoa, thậm chí nó vẫn tồn tại trong văn cảnh ngoài luồng.<br /><br />Các gallery và bảo tàng ngoại quốc là quyền lực lớn nhất trong việc mua bán nghệ thuật. Mô hình này dẫn tới một tình huống hậu thực dân, và bởi thế, chúng tôi phải tìm cách phát triển công chúng địa phương. Kết quả là, chúng tôi có Thượng Hải Biennale, các khu vực trưng bày của Trung Hoa tại các Biennial như ở <span style="font-style:italic;">Venice</span> và <span style="font-style:italic;">São Paolo</span>. Chúng tôi cũng đã phát hiện rằng các quy tắc tiếp thị và kinh tế mà cả chính phủ Trung Hoa và các định chế nước ngoài sử dụng đều có chung thái độ thực dụng hướng về nghệ thuật.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/-ztPb7a2a5_I/Tyd47y8WenI/AAAAAAAABh0/OfOnrA5NGZs/s1600/7829_128800352263_668022263_2236927_5866139_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 285px;" src="http://3.bp.blogspot.com/-ztPb7a2a5_I/Tyd47y8WenI/AAAAAAAABh0/OfOnrA5NGZs/s320/7829_128800352263_668022263_2236927_5866139_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5703660421770541682" /></a><br />Tác phẩm <span style="font-style:italic;">Shenjia alley, fairy 7</span> (+ Shenjia alley, fairy 9; 2 works) của Yang Fudong, một trong những nghệ sỹ Trung Hoa được tuyển lựa vào Kem Lạnh [ Giám tuyển Pili tuyển]<br /><br />Và rồi thị trường nghệ thuật bắt đầu bùng nổ. Tuy nhiên với tôi, sự bùng nổ ấy không dẫn tới một văn cảnh tốt hơn cho sáng tạo nghệ thuật; Nó thậm chí còn làm cho tình huống tệ đi. Trong khát vọng tạo ảnh hưởng và có thêm nhiều công chúng, các định chế công muốn sở hữu nhiều thêm các nghệ sĩ danh tiếng. Tất cả tiền bạc đều chảy về các nghệ sĩ ấy. Trong khi đó, các không gian phi lợi nhuận lại dựa vào quỹ công để quảng bá các nghệ sĩ trẻ, song một khi những nghệ sĩ này bắt đầu có chút danh tiếng, các gallery lại nhẩy vào ngay; Các nghệ sĩ trẻ đang lên sẽ nhanh chóng bị thương mại hóa. <br /><br />Trong tiến trình săn tìm lợi nhuận và nhập vào <span style="font-style:italic;">cảnh diễn </span>[spectacle][2], tác phẩm của rất nhiều nghệ sĩ đã đánh mất chiều sâu và sự thấu thị. Tôi không đòi hỏi các điều kiện thuần khiết dành cho sự sáng tạo nghệ thuật nghiêm túc, song các triển lãm tại các định chế công và các không gian phi lợi nhuận giờ đây rất giống với ngành công nghiệp giải trí. Trong chủ nghĩa tư bản, các vai trò của giám tuyển và định chế đã thay đổi so với hai thập kỷ về trước, do đó chúng ta không thể níu kéo mãi vào mẫu giám tuyển truyền thống, nếu không muốn công việc của chúng ta trở nên một thao tác kiểm định rẻ tiền cho thị trường. Tôi nghĩ việc phát triển một định nghĩa mới về giám tuyển và triển lãm như thể một nhà sản xuất văn hóa/nghệ thuật là vô cùng quan trọng. Trách nhiệm của giám tuyển là khám phá, tuyển lựa, tinh chế và thực hiện công việc cùng nghệ sĩ chứ không phải là việc trình bày ra các nhận định khuôn sáo. Và nếu đã không còn tồn tại các điều kiện thuần khiết, chúng ta phải sáng tạo ra một hệ thống mới mẻ để đối trọng với thị trường.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/-4vyPbPWln4M/Tyd5aeV0SlI/AAAAAAAABiA/VWT4JikICgM/s1600/7829_128806342263_668022263_2237017_595986_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 254px; height: 320px;" src="http://3.bp.blogspot.com/-4vyPbPWln4M/Tyd5aeV0SlI/AAAAAAAABiA/VWT4JikICgM/s320/7829_128806342263_668022263_2237017_595986_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5703660948816153170" /></a><br />Tác phẩm :<span style="font-style:italic;">Tôi có một con cu huy hoàng thế [Tôi có một cái mũ đỏ thế] </span>I Have Got Such a Marvelous Cock [I Have Got Such a (Red Hat)], 1969/70 của Dorothy Yannone, nghệ sỹ Đức gốc Mỹ được tuyển lựa vào Kem Lạnh [do The Wrong Gallery tuyển]<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Massimilliano Gioni, The Wrong Gallery</span><br /><br />Mối quan hệ với định chế (hiểu theo nghĩa rộng nhất) có lẽ là rất phức tạp và bởi vậy tạo ra nhiều ảnh hưởng hơn áp lực từ thị trường. Tất cả chúng ta đều ý thức về ảnh hưởng của thị trường; Cho tới một mức độ nào đó, tất cả chúng ta đều đồng lõa với nó, và đây không nhất thiết phải là một khía cạnh tiêu cực. Chúng ta nên tự nhắc nhớ rằng nghệ thuật là trò chơi chứ không phải là một mối quan hệ bất chính nguy hiểm với tiền bạc. Duchamp từng là bạn bè và cố vấn cho các triệu phú. Raphael và Michelangelo từng làm việc cho những người giàu nhất thế giới, tranh luận luận về hợp đồng và thậm chí về nội dung tác phẩm. Sử gia nghệ thuật vĩ đại Michael Baxandall thậm chí còn đi xa hơn khi miêu tả sự chuyển tiếp từ giai đoạn sử dụng các lá vàng đến giai đoạn tập trung vào phép viễn cận của hội họa thời Phục hưng không như một thay đổi về phong cách hay về quan điểm triết học mà đơn giản chỉ là kết quả xảy ra khi có một nhóm bảo trợ khác, tức những người đã chán ý tưởng coi vàng như một biểu tượng về địa vị, thay thế cho nhóm bảo trợ cũ. Baxandall viết rằng các nghệ phẩm là những đồ vật hóa thạch lưu giữ lại đời sống kinh tế của chúng ta, dẫu chúng ta có muốn hay không. Như vậy, dẫu tìm cách đối nghịch với thị trường, hoặc tìm cách nghĩ về bản thân như thể không dính dấp gì tới nó, thì – xin được nói một cách hoàn toàn châm biếm và bi quan – chúng ta vẫn tiến đến việc trở thành một chức năng của nó ngay cả lúc chống lại nó.<br /><br />Quan điểm này có thể triệt để mang tính giải phóng, bởi nó cho phép chúng ta không chỉ trích sức ép từ thị trường, mà hơn thế, chơi đùa với sức ép ấy, để rồi tìm cách tạo nên điều gì đó khác biệt; nói một cách trung thực, vấn đề không nằm ở thị trường hay tiền bạc, mà ở việc ta ứng xử ra sao với chúng. Ta vẫn có thể dùng lý lẽ này về tiền bạc và nghệ thuật để bàn về các định chế và sự độc lập; Chìa khóa ở đây nằm ở việc làm thế nào chuyển hoá các định chế để giúp nó có thể học được từ các nghệ sĩ cách sử dụng những hình hệ nghệ thuật mới.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Jens Hoffmann</span><br /><br />Một hiện tượng thú vị rất đáng quan sát tại London hiện nay là việc có rất nhiều không gian nghệ thuật tư do các nhà sưu tập thành lập và điều hành với mục đích chính là để trưng bày bộ sưu tập của họ, tuy nhiên ở đó, họ cũng tổ chức trưng bày các triển lãm đương đại. Đây không phải là một hiện tượng mới, song quả đã có một trào lưu của các không gian tư này, có quan hệ chặt chẽ với sự bùng nổ gần đây của thị trường nghệ thuật. Có vẻ là rất nhiều nhà sưu tập đã cảm thấy không còn cần đến các giám tuyển và định chế nghệ thuật công, bởi những những con người và địa chỉ này không thực sự có vai trò gì trong mạng lưới rộng lớn hơn của thị trường nghệ thuật. Điều này sẽ gây ra một ảnh hưởng quan trọng lên khung cảnh chung của nghệ thuật đương đại bởi rất nhiều nhà sưu tập sở hữu các không gian tư cũng là những người đóng góp tiền bạc cho các định chế công, và một khi họ đã có không gian riêng rồi, rất có thể việc chu cấp tiền bạc cho các định chế công sẽ bị ngưng lại. Một điểm thú vị khác là việc các không gian tư ở London cũng tìm cách xin tài trợ từ Hội đồng nghệ thuật, và điều này một lần nữa sẽ làm cho chiếc bánh ngân quỹ trở nên nhỏ đi với các địa chỉ công truyền thống như <span style="font-style:italic;">Whitechapel</span>,<span style="font-style:italic;"> ICA</span>, v.v, và v.v.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Sergio Edelstein</span><br /><br />Đây quả thật là một xu hướng vừa thú vị vừa nguy hiểm. Các cá nhân và các công ty đang ngày càng trở nên giàu có, và các định chế do nhà nước quản lý lại đang ngày càng nghèo đi. Các nghệ phẩm tốt đều vào tay các nhà sưu tập cá nhân, tức những người không sở hữu nền tảng hảo tâm của thế hệ trước – cung hiến các bộ sưu tập cho các bảo tàng quan trọng như một phương cách bất tử hóa di sản của mình. Những nhà sưu tập mới này thích giữ rịt lấy hàng hóa và đẩy cao giá trị thị trường của chúng bằng việc triển lãm chúng trong một văn cảnh thuận lợi mà họ có thể kiểm soát (cứ xem chuyện kể lắm chương hồi về Saatchi thì rõ). Sau khi Delfim Sardo từ chức giám đốc trung tâm văn hóa Belem tại Lisbon, định chế do nhà nước điều hành này đã quyết định, thay vì thuê một giám đốc mới, ký hợp đồng với một nhà sưu tập cá nhân quan trọng của thành phố, qua đó, trong vòng năm năm, dành hẳn trung tâm này làm nơi trưng bày triển lãm các tác phẩm trong bộ sưu tập của ông ta. Tại sao phải mở một không gian tư nếu ta có thể có cả một bảo tàng miễn phí? Sự kiện này cũng tương tự với sự kiện của Flick ở Berlin.[3]<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/-tmjGOKRKNtA/Tyd57xMJpfI/AAAAAAAABiM/v93di8lsCp0/s1600/7829_128801922263_668022263_2236934_6144004_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 257px;" src="http://2.bp.blogspot.com/-tmjGOKRKNtA/Tyd57xMJpfI/AAAAAAAABiM/v93di8lsCp0/s320/7829_128801922263_668022263_2236934_6144004_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5703661520811566578" /></a><br />Tác phẩm <span style="font-style:italic;">Chia</span> [Splitting]của Gordon Matta-Clark<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Shamim M Momin</span><br /><br />Xu hướng này là một trong những sự phát triển quan trọng của thực hành tổ chức trong khoảng một thập kỷ trở lại đây. Miami là nơi đầu tiên làm tôi chú ý đến nó; Từ thế giới thương mại, tạo ra một cấu trúc có vẻ tương đương, tuy vậy có tính ngầm kiểm soát với phân khu phi lợi nhuận tồn tại trước đó. Sự trượt dốc của các gallery, các không gian phá cách, các bảo tàng, v.v., đi song song với tính loãng động tăng dần trong cách chúng ta định nghĩa về nghệ sĩ, giám tuyển, nhà đại diện nghệ thuật, v.v., và về các loại hình thực hành được gán cho họ. Những gì đáng lưu ý về dạng không gian do các nhà sưu tập cá nhân thành lập chính là cái tầm mức mà nhờ vào đó nó có thể giải hủy mọi nhu cầu, chỉ trừ nhu cầu trao đổi thuộc thị trường (thậm chí cả khi nó sản tạo ra các phụ phẩm có tính giám tuyển thú vị và quan trọng tiềm tàng). Nó đóng lại các vòng luân chuyển và ảnh hưởng mà tất cả chúng ta đều biết tại các định chế công, và trong khi tầm quan trọng của các định chế là quá vững chắc để có thể bị thải loại dễ dàng, nếu không cẩn thận, về mặt khái niệm, điều này là có thể xảy ra. <br /><br />Không gian tư hấp dẫn theo những cách nào đó – Thực tại không may mắn là việc càng nhiều tiền thì càng dễ tạo ra các điều kỳ diệu, còn thực tại may mắn là việc có nhiều nhà sưu tập, tuy vẫn còn cần thêm nữa, cũng thực sự tin vào sự cách tân và vào các mối quan hệ tiến bộ với nghệ sĩ. Thật là hởi lòng hởi dạ cho một giám tuyển từng luôn phải nỗ lực đến nản lòng nơi một định chế eo hẹp về tài chính nay lại được cung cấp ngân quỹ và sự tự do lập chương trình theo chuẩn mà các không gian tư này có thể đưa ra. Tôi không thể nói sự phát triển này là hoàn toàn có vấn đề. Điều quan trọng là phải nhìn vào bản chất của nó và xem liệu nó có thể được tạo hình hài theo một cách có lợi tiềm tàng hay không, hơn là bác bỏ một sự phát triển mà sẽ vẫn tiếp tục diễn ra như thường dù có mặt ta hay không. Cuộc thảo luận về việc những gì một không gian thương mại sẽ làm, đối lập lại với những gì một không gian phi lợi nhuận sẽ làm, là hoàn toàn không theo kịp thời sự của dạng không gian do nhà sưu tập tư nhân lập ra, do đó quá dễ dàng trở nên lạc hậu.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Hỏi:</span> <span style="font-style:italic;">Các ngài có cảm thấy rằng sự bùng nổ của các biennial và triển lãm quốc tế về nghệ thuật đương đại, cũng như sự ngập tràn của các hội chợ nghệ thuật đang gây nguy hại cho các triển lãm nhóm được giám tuyển tốt và biến các sự kiện như thế thành ra những tình huống hỗn độn?<br /></span><br /><span style="font-weight:bold;">Lisette Lagnado</span><br /><br />Biennial và hội chợ nghệ thuật (tôi không bàn tới các triển lãm quốc tế về nghệ thuật đương đại bởi đây là một chủ đề khác) nên có các khía cạnh chuyên biệt của mình. Càng làm việc trong lãnh địa nghệ thuật bao lâu, chúng ta càng thấy các biên giới bị nhòa mờ bấy nhiêu. Cả hai dạng sự kiện này đều có chung nhiệm vụ. Vào năm 2008, Brazil sẽ là quốc gia được vinh danh tại <span style="font-style:italic;">ARCO</span>.[4] Bộ văn hóa Brazil không chỉ nhấn mạnh rằng đây không chỉ là một sự kiện có tính chiến lược cho cả Brazil và tây Ban Nha mà còn rằng <span style="font-style:italic;">ARCO</span> “không chỉ” là một hội chợ nghệ thuật; nó là cỗ xe mang chuyển những sự phản ánh về học thuật và về các định chế văn hóa. Sự chuyển hóa này có thể là điềm báo tai ương, bởi đây chính là cách tốt nhất để làm cạn kiệt chất lượng của một biennial, để bần cùng hóa nghĩa của nó. Nếu các hội chợ nghệ thuật thực hiện chính xác những gì từng là nhiệm vụ của biennial, sao chúng ta không đơn giản ngừng phắt việc thực hiện các biennial và giao phứt nó cho nhà tư bản?<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/-_QBBYJCkDF4/Tyd6VOACV4I/AAAAAAAABiY/CgDSSGUd3pY/s1600/7829_128814452263_668022263_2237099_6355897_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 242px;" src="http://4.bp.blogspot.com/-_QBBYJCkDF4/Tyd6VOACV4I/AAAAAAAABiY/CgDSSGUd3pY/s320/7829_128814452263_668022263_2237099_6355897_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5703661958042113922" /></a><br />Tác phẩm sắp đặt <span style="font-style:italic;">"ngày thường" </span>[Everyday] của Sara Ramo, nghệ sỹ Brazil được tuyển lựa vào <span style="font-style:italic;">Kem Lạnh</span> [ Lisette Lagnado tuyển]<br /><br />Để ít tiêu cực hơn, chúng ta nên nghĩ về việc biennial sẽ làm thế nào để tái định nghĩa căn tính của nó. Các hội chợ nghệ thuật trước đây không hề có một chương trình giáo dục – nếu cần phải đưa một ví dụ về một điểm khác biệt giữa biennial và thị trường. Tại Brazil, đây vẫn còn là một khu vực rộng lớn để thực hành.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Massimiliano Gioni, The Wrong Gallery</span><br /><br />Tôi không chắc có mối liên quan trực tiếp nào không giữa sự bùng nổ của các biennial và sự giảm sút chất lượng của các triển lãm. Điều này có chút tương tự với việc nói rằng bởi có nhiều bệnh viện cho nên có nhiều bệnh tật. Càng có nhiều dịp xem và trưng bày nghệ thuật, chúng ta càng có nhiều cơ hội chứng kiến các sai lầm và đối diện với các tác phẩm dở. Mọi việc có lẽ không khác trong quá khứ là bao nhiêu; không phải là vào đầu thế kỷ 20 mọi tác phẩm đều tốt. Có lẽ cũng có điều gì thực sự mang tính giải phóng trong sự bùng nổ của các biennial; càng có nhiều biennial, càng đỡ phải băn khoăn về chúng. Chúng ta có thể coi chúng theo kiểu những sự đã rồi và chả tốn thời gian bận tâm về sự bùng nổ của bảo tàng , nạn lạm phát của các gallery hay các không gian phi lợi nhuận. <br /><br />Bởi các lý do lạ lung nào đó, một số khuôn dạng và địa điểm triển lãm nghệ thuật dễ được chấp nhận hơn những cái khác, thậm chí các khuôn dạng và địa điểm này không nhất thiết phải trong trắng như các biennial. Có lẽ giờ là lúc chúng ta nên bắt đầu ứng xử với các biennial như với bất kỳ triển lãm hay khuôn dạng nào khác mà không rơi vào tình thế hoang tưởng hay siêu phê phán, để rồi tập trung hơn vào khía cạnh nội dung chứ không phải khía cạnh khuôn dạng. Tôi không nói rằng các biennial là hoàn toàn tốt đẹp, song chúng ta nên ngừng việc ứng xử với chúng như thể đó là ác quỷ ghê gớm nhất của nghệ thuật đương đại.<br /><br />Và rồi, một lần nữa, lại phải đề cập tới một số đặc tính nào đó của các biennial, tức những gì có thể đóng góp vào việc chuyển hóa chúng thành ra các triển lãm khả đoán và đôi khi thất bại. Các biennial được cho là quan tâm tới các nghệ sĩ trẻ và các xu hướng mới; bởi vậy chúng quảng bá một ý tưởng về nghệ thuật như thể tình trạng lỗi thời được lập trình, và theo cảm thức này, chúng hoàn toàn không khác gì với các hội chợ. Tại các biennial, các nghệ sĩ hân hoan với việc trưng bày tác phẩm mới, tức những gì làm cho tính ổn định về mặt chủ đề của triển lãm khó có thể được đạt tới. Và kết quả là, có một điểm ngày càng chung cho tất cả biennial là việc không có bất kỳ đường dẫn nào giữa các tác phẩm với nhau; chúng chuyển hóa thành các phòng trưng bày của các tác phẩm cá nhân. <br /><br />Bởi xuất hiện song song với ý thức toàn cầu (hay ý thức toàn cầu giả định) về nghệ thuật đương đại, các biennial – đặc biệt từ cuối thập kỷ 90 – đã hầu như đông cứng lại với các ý tưởng về địa lý hay địa chính trị, tức điều ngay sau đó, một cách ngược đời, đã đóng góp vào việc hạn chế sự đối thoại về nghệ thuật đương đại chỉ trong một số khu vực cụ thể, hơn là nới rộng nó theo những lối hướng bất khả đoán. Rất nhiều các giả định khác xuất hiện trong tâm trí ta khi suy tư về biennial; chúng đóng góp cho sự phổ biến của một “chủ nghĩa hội hè” cụ thể, một sự pha trộn của cảnh diễn và dạng nghệ thuật dễ nhằn; chúng truyền bá rộng rãi một ý tưởng sai lầm về chủ nghĩa quốc tế, v.v. Song điều tuyệt vời nhất về tất cả các giả định này lại nằm ở việc chúng chỉ là các giả định mà thôi và bởi vậy có thể bị phá bỏ, tái chế tạo và chuyển hóa.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Jens Hoffmann</span><br /><br />Có lẽ chủ đề ở đây không phải về sự tiêu cực hay tích cực của các biennial. Chúng ta chỉ cần đơn giản tự hỏi bản thân rằng liệu mình có nhất thiết phải làm những gì đang làm hay không? Liệu có điều gì mới mẻ và ý nghĩa mà mình có thể đưa thêm vào một tình huống qua việc thực hiện một triển lãm hay không? Liệu có thực sự cần thiết khi phải có thêm hết triển lãm này đến dự án khác hay không? Nếu không cảm thấy thế, chúng ta nên dừng ngay lại. Tôi không thể không cảm thấy rằng chẳng cần thiết có nhiều biennial đến vậy – song sự thật là cũng đã có rất nhiều triển lãm.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Gloria Sutton</span><br /><br />Tôi đồng ý với quan sát của Massimiliano Gioni rằng, thay vì mở rộng, các biennial luôn “giới hạn cuộc đối thoại về nghệ thuật đương đại”, và tôi muốn thêm vào rằng chúng còn giới hạn cuộc đối thoại chỉ trong phạm vi những kiểu loại nghệ sĩ nào đó, tức một nhúm giống nhau các nghệ sĩ xuất hiện ở các địa điểm này hết năm này qua năm khác. Nếu chúng ta chỉ chú ý tới những tác phẩm xuất hiện lòng vòng trong các hội chợ nghệ thuật và các biennial, thế giới sẽ trở nên tẻ ngắt và đơn dạng. Tôi được tạo cảm hứng từ các hội nhóm lâu đời như <span style="font-style:italic;">nhóm cộng tác của các nhà làm phim London</span> [London Film-maker’s Co-operative] và <span style="font-style:italic;">Kho dữ liệu điện ảnh hợp tuyển </span>[Anthology Film Archieves]; vào thập kỷ 80 thì là nhóm <span style="font-style:italic;">Sankofa </span>và <span style="font-style:italic;">nhóm làm phim Black Audio</span> [Black audio Film Collective]; còn gần đây hơn là các tổ chức như <span style="font-style:italic;">Rhizome.org</span> và những người khác, tức những tổ chức và con người không gấy hấn với hệ thống, mà tìm cách đề nghị các mạng lưới kiểu khác.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://2.bp.blogspot.com/-ZpT0_XY09wg/Tyd6kyURL_I/AAAAAAAABik/wxvUa9V62IE/s1600/7829_128803287263_668022263_2236935_1619581_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 256px;" src="http://2.bp.blogspot.com/-ZpT0_XY09wg/Tyd6kyURL_I/AAAAAAAABik/wxvUa9V62IE/s320/7829_128803287263_668022263_2236935_1619581_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5703662225488687090" /></a><br />Tác phẩm <span style="font-style:italic;">Vô đề</span> [Untitled] của Tim Lee, một nghệ sỹ Hàn Quốc được tuyển lựa vào <span style="font-style:italic;">Kem lạnh</span> [giám tuyển Jens Hoffmann tuyển]<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Hỏi: </span><span style="font-style:italic;">Công việc tuyển lựa nghệ sĩ của các ngài bị tác động ra sao bởi việc, như Massimiliano Gioni nói, là “bạn đồng hội đồng thuyền” với nghệ sĩ? Các nghệ sĩ được các ngài tuyển lựa cho Kem lạnh là theo chí nào? Tác động từ thị trường có ảnh hưởng ra sao đến cách các ngài hiểu về một nghệ sĩ?<br /></span><br /><span style="font-weight:bold;">Lisette Lagnado</span><br /><br />Tôi chỉ tuyển lựa các nghệ sĩ mà tôi biết. Nếu không thảo luận với họ, tôi sẽ không mời họ tham dự vào Kem lạnh hay bất kỳ triển lãm nào khác. Đây là tiêu chí đầu tiên của tôi. Tôi có thể nhận ra một nghệ sĩ” thực sự” (khác với những người chỉ khao khát trở thành nghệ sĩ) qua một cuộc gặp gỡ, một bữa ăn tối, một cuộc trò chuyện trong quầy bar, một chuyến thăm xưởng vẽ. Chúng tôi trao đổi các quan điểm khác nhau, kể cả những gì không nhất thiết có liên quan tới nghệ thuật, mà có thể là về đạo đức học, chính trị học, chuyện hài hước hay về con cái, gia đình.<br /><br />Tiêu chí thứ hai của tôi là tạo ra một mối liên hệ thực sự với “nghệ sĩ nguồn” của tôi, Clido Meireles, và điều này có lẽ giải thích tầm quan trọng của các nghệ sĩ Nam Mỹ trong danh sách của tôi. Tôi coi nghệ sĩ nguồn như một ống ngắm mà qua đó tôi thấy được những gì đang diễn ra. (Tôi đã cảm thấy thật kỳ diệu khi thấy Malevich được đưa vào danh sách các nghệ sĩ nguồn. Thật là một quyết định dũng cảm.)<br /><br />Tiêu chí thứ ba là không mời những nghệ sĩ sẽ mất dạng khỏi khung cảnh nghệ thuật trong vòng mười năm tới. Lẽ dĩ nhiên, không ai chắc được về điều này mà luôn chỉ có thể ước đoán.<br /><br />Tôi không băn khoăn gì về thị trường vào lúc lập danh sách nghệ sĩ. Một số nghệ sĩ trong danh sách của tôi không hề thuộc về một gallery nào cả, song có lẽ hy vọng rằng Kem lạnh sẽ trở nên chiếc cầu nối giữa họ với các gallery. Chúng ta chỉ là những “ người đưa ra đề nghị”, như Oiticia từng nói. Và nếu như thị trường đón lấy các nghệ sĩ “tươi mới” này, thì tại sao lại từ khước? Nghệ sĩ cần sống được từ các tác phẩm của mình.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Olesya Turkina</span><br /><br />Tôi rất vui khi Lisette Lagnado thích việc Malevich được đưa vào danh sách nghệ sĩ nguồn. Đây không phải là một lựa chọn dễ dàng. Thông qua đó, tôi muốn bày tỏ lòng tri ân tới Malevich, người đã sáng tạo ra cái nguyên tố quá ngưỡng” [surplus element] trong nghệ thuật. Các bức tranh của ông tái hiện lý thuyết về “nguyên tố thặng dư” – như việc ông sử dụng các chất liệu in ấn [trong các bức collage (tranh dán ghép) – ND] và các sơ đồ – nhìn rất đương đại. “Nguyên tố quá ngưỡng” là điều gì đó rất quan trọng cho các nghệ sĩ đương đại làm việc với phương tiện truyền thông đại chúng, bởi nó nói về sự chuyển đổi [shifting] và kẻ chuyển đổi [shifter]. Thật tuyệt vời khi trong nghệ thuật, kẻ chuyển đổi trở nên hữu hình, có thể nghe và chạm vào được, song cùng lúc, cũng lại không quá rõ ràng.<br /><br />Còn cách tuyển lựa nghệ sĩ của tôi thì rất đơn giản. Tôi chọn những nghệ sĩ mà nơi tác phẩm của họ tôi có thể thấy được những gì tôi sẽ gọi là “sự mỹ học hóa” thương tổn từ sự xã hội hóa. Tôi có quen biết cá nhân với hầu hết các nghệ sĩ; chỉ có một vài trong số họ là tôi chưa từng gặp mặt trước đây; song tác phẩm của những người này đã làm tôi xúc động.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/-K78xM5FhSMg/Tyd6-vRAjtI/AAAAAAAABiw/CANB2p2h3jg/s1600/7829_128798142263_668022263_2236923_5056369_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 252px; height: 320px;" src="http://4.bp.blogspot.com/-K78xM5FhSMg/Tyd6-vRAjtI/AAAAAAAABiw/CANB2p2h3jg/s320/7829_128798142263_668022263_2236923_5056369_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5703662671346306770" /></a><br />Một tác phẩm của Kasimir Malevich<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Gloria Sutton</span><br /><br />Nghiên cứu của tôi tập trung vào các thực hành điện ảnh mở rộng của thập kỷ 60 và, cụ thể hơn, vào sự chuyển đổi chủ thể tính từ chủ thể xem phim hiện đại và đơn độc tới các công chúng truyền hình trả tiền hàng tháng, và sau này là các tác phẩm dựa vào mạng internet. Vì mục tiêu này, các nghệ sĩ mà tôi đối thoại hầu hết đều bỏ thời gian và tiền bạc vào những mối quan tâm cũng như xu hướng làm việc trong khu vực điện ảnh và video. Họ không hề là những người lười nghiên cứu. Tôi tìm thấy nhiều chất liệu tuyệt vời trong giá sách tại studio của họ hơn trong bất kỳ thư viện nào. Tôi không hề có ý rằng tôi chỉ quan tâm tới các nghệ sĩ cải biến được cho các ý tưởng về điện ảnh của tôi, v.v., song các tranh luận và phê phán về các bài viết của tôi với các nghệ sĩ đã mang lại các tiến bộ vượt bậc nhất cho tôi. Tuy nhiên sự tập trung có tính rất hạn hẹp này của tôi cũng có nghĩa rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều tác phẩm thú vị kiểu khác.<br /><br />Phương pháp tôi sử dụng để tuyển lựa nghệ sĩ cho Kem lạnh có thể đặt tên là gia đình trị, bởi tôi đã có một mối quan hệ dài lâu với rất nhiều nghệ sĩ được tôi tuyển lựa, từ khi họ còn hành động trong vai trò một nghệ sĩ trình diễn ở một số tác phẩm video thời kỳ đầu, cho tới khi chúng tôi đã có thể đổi chác sách cho nhau. Tôi chỉ viết về những gì tôi biết. Trong vai trò một giám tuyển, tôi không bị chìm vào cái huyễn tưởng về khả năng bao quát tổng hợp. Nghề nghiệp của tôi không phải là đi ra đường để tìm kiếm tài năng mới, và tôi đồng ý với Massimiliano Gioni khi ông nói rằng các giám tuyển không phải là những “nhà thám hiểm lãng mạn”. <br /><br />Trong vai trò một giám tuyển, tôi được truyền cảm hứng từ giám tuyển và sử gia nghệ thuật David Joselit.[5] Khi đối mặt với nhiệm vụ nan giải của việc viết một khảo cứu về thời kỳ hậu-1945 cho công chúng số đông, ông lưu ý rằng việc đưa vào nghiên cứu các nghệ sĩ nào đó chứ không phải các nghệ sĩ khác có thể cung cấp những cái nhìn thấu thị khả dụng vào nhiều cá nhân hay sự kiện mà trong cuốn sách đã không được nêu bật hay tường giải kỹ lưỡng. Tôi hy vọng rằng đây cũng sẽ là trường hợp của tôi khi tuyển lựa cho Kem lạnh.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/-bEgybougnCY/Tyd7R8bPHrI/AAAAAAAABi8/HxjptecrRSY/s1600/7829_128808337263_668022263_2237023_2969975_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 240px;" src="http://4.bp.blogspot.com/-bEgybougnCY/Tyd7R8bPHrI/AAAAAAAABi8/HxjptecrRSY/s320/7829_128808337263_668022263_2237023_2969975_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5703663001296379570" /></a><br />Tác phẩm sắp đặt của nghệ sỹ Nhật Tam Ochiai được tuyển lựa vào <span style="font-style:italic;">Kem Lạnh</span> [Midori Mitsui tuyển]<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Midori Matsui</span><br /><br />Tôi luôn bị cuốn hút bởi những nghệ sĩ với các tác phẩm thuộc một trong hai phạm trù sau đây. Thứ nhất là một dạng thực hành kiểu can thiệp [vào đời sống thường nhật-ND] có tính hòa bình và hài hước cũng như tạo ra được các tình huống cho sự truyền thông sống động và sự tri giác tươi mới về các hiện tượng đời thường. Các tác phẩm trong phạm trù này kế thừa tinh thần và các phương pháp của trào lưu <span style="font-style:italic;">Ngẫu biến </span>[Fluxus], nhóm <span style="font-style:italic;">Nghệ thuật tình huống</span> [Situtionism], <span style="font-style:italic;">Nghệ thuật công cộng</span> [Communal art] của Gordon Matta-Clark, <span style="font-style:italic;">Nghệ thuật sắp đặt hậu tối giản</span> [post-Minimalist installation]và <span style="font-style:italic;">nghệ thuật thực địa</span> [Land art], nhấn mạnh vào sự tham dự của công chúng chứ không vào tính biệt lập của nghệ thuật, vào tiến trình chứ không vào các sản phẩm sau cuối. <br /><br />Là họ hàng của dạng <span style="font-style:italic;">Nghệ thuật về các mối quan hệ</span>, song những tác phẩm của các nghệ sĩ này hỗn loạn hơn, và trộn lẫn các yếu tố khôi hài có ảnh hưởng từ văn hóa đại chúng đương đại. Ví dụ, mặc dù các sắp đặt và trình diễn công cộng của nhóm Gelitin áp dụng các cấu trúc khái niệm từ nghệ thuật tiền phong của thập kỷ 60 và 70, họ vẫn thực hiện các màn trình diễn của mình với một sự tục tĩu khôi hài trong đó pha lẫn các tư duy nghiêm túc với sự đùa dai kiểu trẻ con. Các thực hành ấy là một dạng nghê thuật khái niệm giúp con người kết nối được với đời sống đương đại. Trong nghệ thuật của mình, họ đối xử với các nguồn mạch lịch sử-nghệ thuật, các phim hoạt hình từ TV, và các hài kịch ba xu với sự trọng thị như nhau.<br /><br />Phạm trù thứ hai thuộc về những tác phẩm tìm cách tái sắp xếp các mảnh lẻ của thông tin và hình ảnh ngồn ngộn từ các nguồn khác nhau, để trình ra một tiến trình liên tưởng nhất thời và độc đáo. Một sự chồng chất các hình ảnh rời lẻ cũng có thể phóng chiếu về một huyển thoại riêng tư, chỉ ra một tự sự tập thể về một số cộng đồng đã mất đi hay chỉ tồn tại trong tưởng tượng. Phạm trù này là một thái độ hơn là một phong cách. Tôi gọi nó là <span style="font-style:italic;">“pop-vi mô”</span> [micro-pop], một ý tưởng lấy cảm hứng từ định nghĩa của Deleuze về văn chương “giọng thứ” [minor literature], tức điều có thể mở rộng tới thực hành nghệ thuật đương đại.<br /><br />Một dạng nghệ thuật “giọng thứ” hay <span style="font-style:italic;">“pop-vi mô” </span>không phụ thuộc vào các mã xã hội hay các lý thuyết có thẩm quyền, mà tạo nên hình hài mỹ học và mã hành vi độc đáo của riêng nó một cách nhất thời qua việc tái sắp xếp các mảnh rời lẻ của thông tin, trải nghiệm và hình ảnh ngồn ngộn từ các tình huống đời sống khác nhau. Sống trong một nền văn hóa của “đa số” với vai trò một nhân cách “trẻ thơ” hay một kẻ nhập cư về văn hóa, một nghệ sĩ”giọng thứ” khó có thể tiếp cận các tri thức của dòng chính lưu văn hóa; song vị trí thua thiệt này lại đưa đến các độ lệch lạc và đảo lộn thú vị, giúp thiết lập nên các hình thức truyền thông mới. Cùng một cảm thức như thế, thái độ <span style="font-style:italic;">pop-vi mô</span> không từ khước hoàn toàn các sản phẩm khuôn sáo hay thương mại. Chấp nhận chúng như các cấu tố của thực tại đương đại, <span style="font-style:italic;">pop-vi mô</span> tìm ra một cách sử dụng mới, sáng tạo nên các văn cảnh thích hợp cho những sự vật mà nghĩa của chúng có thể được xác quyết. Các hành vi hay sự sáng tạo này có khả năng chuyển hóa cái tầm thường và cục bộ thành ra điều gì đó riêng tư, tươi mới và chuyên chở đầy ắp các tư duy triết học – một dạng nghệ thuật phúng dụ có hiệu lực và gây tác động trong kỷ nguyên của lạc-xoong và đồ thừa mứa. Khi xem dạng nghệ thuật này, tôi cảm thấy khả thể của đời sống vượt xa khỏi sự phẳng tĩnh của không gian và sự tri giác.<br /><br />(Còn 1 kì)<br /><br />---------<br /><br />[1] Allan Kaprow, <span style="font-style:italic;">“Nghệ sĩ như một con người trong thế giới”</span>, trong cuốn <span style="font-style:italic;">Các tiểu luận xóa nhòa ranh giới giữa nghệ thuật và đời sống </span>[The essays blurring of Art and Life, do Allan Kaprow và Jeft Kelley biên tập (Berkeley, CA 2003), tr. 46-58<br /><br />[2] <span style="font-style:italic;">Spectacle</span> là một thuật ngữ do Guy Debord chế ra trong cuốn <span style="font-style:italic;">The Society of Spectacle </span>[Xã hội cảnh diễn] để mô tả một xã hội mà trong đó mọi hành vi và định niệm của con người đều bị chi phối bởi các cảnh diễn do truyền hình và tin tức tạo ra, nói khác đi, một xã hội khi các mối quan hệ và đời sống xã hội thuần thực của con người đã bị thay thế bởi chính các bản tái hiện về nó, khi “tất cả những gì từng được nghiệm trải một cách trực tiếp, giờ đây trở nên các bản tái hiện đơn thuần”. (Chú thích của người dịch)<br /><br />[3] Năm 2004, Friedrich Christian (“Mick”) Flick đã cho Hamburger Bahnhof, bảo tàng nghệ thuật đương đại Berlin, do Cộng hòa Liên bang Đức điều hành, mượn bộ sưu tập nghệ thuật trị giá 300 triệu USD của mình. Ông nội nhà sưu tập này, Friedrich Flick, đã trở nên giầu có nhờ việc cung cấp vũ khí cho Đảng Quốc xã trong thời kỳ Thế chiến II.<br /><br />[4] <span style="font-style:italic;">Arte Contemporáneo </span>(ARCO) là một hội chợ nghệ thuật thường niên (từ năm 1980) tại Madrid, Tây Ban Nha.<span style="font-style:italic;"> ARCO </span>khác với các hội chợ nghệ thuật khác bởi việc mỗi năm nó lại mời một quốc gia khách mời tới để tổ chức một khu vực đặc biệt. Thêm vào đó, <span style="font-style:italic;">ARCO</span> cũng tổ chức các chương trình phối hợp như thảo luận, bàn tròn, chiếu phim, trinh diễn và các sự kiện khác để phụ trợ cho hội chợ.<br /><br />[5] Học giả và phê bình gia David Joselit đã nghiên cứu về các khoảnh khắc then chốt trong nghệ thuật đương đại từ Dada cho tới thời điểm xuất hiện của toàn cầu hóa và truyền thông đại chúng. Cuốn sách in năm 2003 của Joselit, <span style="font-style:italic;">Nghệ thuật Mỹ từ 1945</span> [American Art Since 1945] là một nghiên cứu tổng hợp được viết trong những năm tháng ông giữ vai trò một giám tuyển tại<span style="font-style:italic;"> Học viện Nghệ thuật Đương đại Boston </span>vào thập kỷ 80 và từ thực hành lâu nay của ông trong vai trò một phê bình gia nghệ thuật.Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-79904949082028046822012-01-26T06:27:00.000-08:002012-01-30T21:31:10.083-08:00(chuyên đề giám tuyển) 10 GIÁM TUYỂN, 100 NGHỆ SĨ ĐƯƠNG ĐẠI, 10 NGHỆ SĨ NGUỒN (KỲ2)<span style="font-weight:bold;">Lời người dịch </span><br /><br /><span style="font-style:italic;">Bài dịch dưới đây được dịch từ cuốn <span style="font-weight:bold;">Kem lạnh: 10 giám tuyển, 100 nghệ sĩ đương đại, 10 nghệ sĩ nguồn [Ice Crem, 10 curator, 100 contemporary artists, 10 source artist] </span>do Nhà xuất bản <span style="font-style:italic;">Phaidon</span> xuất bản năm 2008. Bài dịch này là cuộc trao đổi giữa 10 giám tuyển trong số các giám tuyển quan trọng nhất hiện nay trên thế giới, về các chủ đề như vai trò và nhiệm vụ của giám tuyển, áp lực thị trường, cuộc đối đầu giữa định chế và các khu vực ngoại biên, cũng như về chính các thay đổi trong thực hành giám tuyển thế giới. Trong vai trò là một nghệ sĩ và giám tuyển độc lập, tôi hy vọng cuộc trao đổi này sẽ giúp cung cấp cho bạn đọc, nhất là các bạn đọc là công chúng tại Việt Nam, một “lát cắt” thông tin, dẫu không hoàn toàn đầy đủ, song cũng khá bao quát về, các vấn đề của thực hành giám tuyển, của nghệ thuật nói chung trên thế giới hiện nay.</span><br /><br />Như Huy<br /><br />---------<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Tiểu sử các giám tuyển tham gia vào cuộc thảo luận</span><br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Sergio Edelstein</span> </span><br /><br />Sáng lập Trung tâm Nghệ thuật Đương đại Tel Aviv năm 1995, ở đó, từ năm 1997, ông đã giám tuyển 5 biennial về nghệ thuật trình diễn và 2 biennial quốc tế về nghệ thuật video, có tên là<span style="font-style:italic;"> “Video Zone”</span>. Năm 1987, ông sáng lập <span style="font-style:italic;">Artifact Gallery</span>, Tel Aviv, nơi ông nhận lãnh vai trò giám đốc cho tới năm 1995. Từ năm 1995, ông đã giám tuyển vô số triển lãm video, các triển lãm hồi cố, các sự kiện trình diễn và các biennial, bao gồm Khu vực dành cho Israel tại<span style="font-style:italic;"> Venice Biennale (2005)</span>. Edelstein đã giảng dạy, dàn dựng các chương trình chiếu video và xuất bản trước tác ở nhiều quốc gia vòng quanh thế giới, trong đó bao gồm Israel, Tây Ban Nha, Brazil, Ý, Áo, Đức, Mỹ và Argentina.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Jens Hoffmann</span> </span><br /><br />là một giám tuyển và cây viết về nghệ thuật có xuất xứ từ San Francisco, là nơi ông giữ chức giám đốc <span style="font-style:italic;">CCA Wattis Institute</span>. Ông là giám đốc triển lãm tại <span style="font-style:italic;">Viện Nghệ thuật Đương đại London</span> và là thành viên bộ môn của chương trình nghiên cứu giám tuyển tại <span style="font-style:italic;">Trường Goldsmith</span>, Đại học London cho tới cuối năm 2006. Từ năm 1998, ông đã giám tuyển rất nhiều triển lãm quốc tế cũng như viết hàng trăm bài viết về nghệ thuât thị giác và thực hành giám tuyển cho các ấn phẩm bảo tàng xuất bản và các tạp chí nghệ thuật. Ông đã tổ chức vô số triển lãm nhóm, trong đó bao gồm <span style="font-style:italic;">“Những sự chọn lựa ưa thích của nghệ sĩ”</span>, phần 1 và phần 2 (2004), <span style="font-style:italic;">“100 artistss See God”</span> [“100 nghệ sĩ thấy Chúa”] (2004-5) và <span style="font-style:italic;">“Tino Sehgal”</span> (2005, 2006 và 2007).<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Lisette Lagnado </span></span><br /><br />Là trưởng ban giám tuyển của <span style="font-style:italic;">Biennial São Paolo </span>lần thứ 27 (2006) và tham gia làm việc cho triển lãm <span style="font-style:italic;">Documenta</span> lần thứ 12 (2007), năm 1993, bà sáng lập <span style="font-style:italic;">Projecto Leonilson</span> và xuất bản <span style="font-style:italic;">Leonilson, São tantas as verdades</span>. Bà đã là đồng giám tuyển triển lãm <span style="font-style:italic;">“Antartica Artes com a Folha”</span> (1996), một triển lãm lập đồ bản cho nghệ thuật của Brazil, và là giám tuyển triển lãm <span style="font-style:italic;">“Special Hall”</span> [Phòng trưng bày đặc biệt] tôn vinh Iberê Camargo tại <span style="font-style:italic;">Biennial do Mercosul</span> lần thứ 2 (1999), cũng như là đồng điều hành website <span style="font-style:italic;">Programa Hélio Oiticica</span>. Từ 2001, bà là biên tập viên của tạp chí <span style="font-style:italic;">online Trópico</span>. Bà có bằng tiến sĩ triết học của Đại học São Paolo.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Midori Matsui </span></span><br /><br />là một phê bình gia nghệ thuật và học giả từng viết rất nhiều về văn hóa nghệ thuật của Nhật Bản và phương Tây cho nhiều tạp chí định kỳ và catalogue khác nhau, bao gồm <span style="font-style:italic;">Little Boy; The Arts of Japan’s Exploding Subculture</span> [Cậu nhóc: Nghệ thuật về trào lưu văn hóa bên lề đang bùng nổ của Nhật Bản] (2005), <span style="font-style:italic;">Japan Society</span>, New York [Hiệp hội Nhật bản New York]; <span style="font-style:italic;">Public Offering</span> [Sự đề nghị công khai] (2001), <span style="font-style:italic;">Musem of Contemporary Art</span> [Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại] và<span style="font-style:italic;"> Geffen Contemporary</span>, Los Angeles; <span style="font-style:italic;">Painting at the Edge of the World</span> [Hội họa ở nơi tận cùng thế giới] (2001) Walker Arts Center [Trung tâm nghệ thuật Walker], Mineapolis;<span style="font-style:italic;">Takashi Murakami: The Nonsense of the Meaning of the Nonsense</span> [Takashi Murakami; Sự bất tri nơi nghĩa của sự bất tri] (2000), do Harry N Abrams xuất bản và <span style="font-style:italic;">Art in a New World; Post-Modern Art in Perspective</span> (2000) [Nghệ thuật trong một thế giới mới; Nghệ thuật hậu hiện đại nhìn trong phối cảnh], do Asahi Press xuất bản. Matsui hiện đang giảng dạy về nghệ thuật hậu hiện đại và lý thuyết tại đại học nghệ thuật Tama, Yokohama. Bà là giám tuyển của triển lãm <span style="font-style:italic;">“The Door into Summer: The Age of Micropop”</span> [Cánh cửa vào mùa hạ; kỷ nguyên của pop –vi mô] (2007, tại Art Tower Mito [Tháp nghệ thuật Mito], Nhật Bản.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Shamim M. Momin</span> </span><br /><br />là giám tuyển cộng tác tại Bảo tàng Whitney về nghệ thuật Mỹ, giám đốc chi nhánh và giám tuyển của Bảo tàng Whitney tại Altria, New York. Ngoài công việc đồng giám tuyển cho Whitney Biennial (2004), bà còn coi sóc <span style="font-style:italic;">“Loạt triển lãm đương đại”</span> [The Contemporary Series] và mới đây đã tổ chức các triển lãm cá nhân <span style="font-style:italic;">“Banks Violette” </span>(2005), <span style="font-style:italic;">“Raymond Pettibon” </span>(2005-6) và <span style="font-style:italic;">“Mark Grotjahn”</span> (2006-7) cho dự án này. Bà là tác giả cho các catalogue của những cuộc triển lãm tại Whitney cũng như thường xuyên viết cho các ấn phẩm nghệ thuật khác. Bà tham gia vào rất nhiều hội đồng và các cuộc thảo luận bàn tròn và thường là giám tuyển và phê bình gia nghệ thuật khách mời tại các trường nghệ thuật, các chương trình thường trú nghệ thuật và các đại học. Mới đây nhất, bà là giáo sư thỉnh giảng cho chương trình thạc sĩ cao cấp của Đại học New York.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Pili </span></span><br /><br />là giảng viên tại học viện mỹ thuật trung tâm và giám tuyển tại không gian phương tiện mới Loft, Bắc Kinh. Ông đồng điều hành <span style="font-style:italic;">“Between Past and Future; New Photography and Video from China</span> [Giữa quá khứ và tương lai; nhiếp ảnh và Video mới từ Trung Hoa], một triển lãm được thực hiện liên kết với Freewaves, được đồng giám tuyển bởi Wu Hung và Christopher Phillips. Ông còn là giám tuyển cho triển lãm lưu động <span style="font-style:italic;">“Under Constructuon”</span> [Phía dưới cấu trúc], tức một triển lãm đi vòng quanh các quốc gia châu Á từ 2001 đến 2003, là trợ lý giám tuyển cho khu vực Trung Hoa tại Biennial São paolo lần thứ 25 92002), là giám tuyển cho Biennale Thượng Hải (2002) và cho triển lãm <span style="font-style:italic;">“Allors la Chine” </span>(2003), tại trung tâm nghệ thuật Pompidu, Paris. Vào năm 2005, Pili và Waling Boers, từ Gallery Büro Friederich tại Berlin, sáng lập <span style="font-style:italic;">Gallery xưởng làm việc quốc tế độc lập</span> [Independent Universal Studo Gallery] tại Bắc Kinh. Ông cũng là giám tuyển cho một khu vực trong triển lãm <span style="font-style:italic;">China Power Station</span>; phần 1, là dự án của gallery Serpentine tại Battersea Power Station, London.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Gloria Sutton </span></span><br /><br />từng là thành viên thuộc <span style="font-style:italic;">Quỹ Helena Rubinstein</span> về nghiên cứu phê phán tại chương trình nghiên cứu độc lập thuộc Bảo tàng Whitney về Nghệ thuật Mỹ và hiện đang hoàn tất bằng tiến sĩ lịch sử nghệ thuật tại Đại học California, Los Angeles, cũng là nơi bà viết một luận án về Thực hành điện ảnh mở rộng của thập kỷ 60. Bà là thành viên sáng lập và hiện thuộc ban giám đốc của <span style="font-style:italic;">Rhizome.org</span>. Trong vai trò người nhận học bổng giám tuyển Ahmanson tại bảo tàng nghệ thuật đương đại Los Angeles, bà đã giám tuyển triển lãm <span style="font-style:italic;">“MOCA Focus: Karl Haendel”</span> và là trợ lý giám tuyển của triển lãm <span style="font-style:italic;">“Ecstasy: In and About Altered States” </span>[Mê ngất: Trong và về các biến trạng]. Mới đây bà đã xuất bản cuốn sách <span style="font-style:italic;">Future Cinema: The Cinematic Imaginary After Film</span> [Tương lai của điện ảnh: Sự tưởng tượng thuần túy điện ảnh thời hậu làm phim], do MIT Press xuất bản.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Olesya Turkina </span></span><br /><br />là một phê bình gia nghệ thuật và giám tuyển. Các dự án trước đây của bà bao gồm Khu vực nước Nga tại Vinice Biennale lần thứ 48 (1999) và bà cũng là đồng giám tuyển của triển lãm <span style="font-style:italic;">“Kabinet”</span>, Stedelijk Museum, Amsterdam. Olesya Turkina là thành viên nghiên cứu cao cấp tại ngành nghệ thuật đương đại thuộc Bảo tàng Quốc gia Nga, St. Petersburg. Bà từng viết cho các tạp chí như <span style="font-style:italic;">Flash Art</span> và <span style="font-style:italic;">Moscow Art Magazines</span>, và là một biên tập viên của tạp chí nghệ thuật online <span style="font-style:italic;">Contemporary Russian Art Newsletter</span> [Tin tức về nghệ thuật đương đại Nga]. Cùng với việc là thành viên <span style="font-style:italic;">Liên đoàn Không gian Nga</span> [Russian Space Federation], là nơi mà bà cống hiến rất nhiều sức lực, trong khoảng vài năm nay, bà cũng làm việc cho một loạt triển lãm về điện ảnh có tên <span style="font-style:italic;">“The Chain of Flowers”</span> [Chuỗi hoa] cộng tác với <span style="font-style:italic;">Bảo tàng Công nghệ kỷ Jura</span> [Museum of Jurrassic Technology], Los Angeles.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Philippe Vergne </span></span><br /><br />là trưởng ban giám tuyển và phó giám đốc <span style="font-style:italic;">Trung tâm Nghệ thuật Walker</span> [Walker Art Center], Mineapolis. Ông là đồng giám tuyển <span style="font-style:italic;">Whitney Biennial (2006)</span> với Chrissie Lies và là giám đốc <span style="font-style:italic;">Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Marseille</span> từ 1994 tới 1997. Ông là giám tuyển triển lãm lưu động và hồi cố đầu tiên của nghệ sĩ Trung Hoa Huang Yong Ping (2005). Ông cũng đã giám tuyển vô số các triển lãm dạng chuyên khảo khác trong thời kỳ làm việc tại <span style="font-style:italic;">Trung tâm Nghệ thuật Walker</span>, bao gồm <span style="font-style:italic;">“Cameron Jamie” </span>(2006), và <span style="font-style:italic;">“Kara Walker” </span>(2007). Ông từng viết cho rất nhiều tạp chí định kỳ như<span style="font-style:italic;"> Artforum</span>, <span style="font-style:italic;">Parkett</span> và <span style="font-style:italic;">Asia Pacific Magazine</span>.<br /><br /><span style="font-style:italic;">T<span style="font-weight:bold;">he Wrong Gallery</span><br /></span><br /><br />Vào năm 2002, Nhóm của nghệ sĩ Maurizio Cattelan, giám tuyển Massimiliano Gioni, biên tập viên và giám tuyển Ali Subotnick đã thành lập <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span>, là một không gian triển lãm rất nhỏ theo hình một cửa ra vào rộng một mét vuông tại Chelsea, quận nghệ thuật của New York. <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery </span>bị trục xuất khỏi không gian đó vào mùa Xuân năm 2005, và được đưa lại vào khu gallery của các bộ sưu tập thuộc bảo tàng tại <span style="font-style:italic;">Bảo tàng Nghệ thuật Tate Modern</span>, London. <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span> cổ vũ cho các các cuộc can thiệp bí mật cỡ nhỏ vào không gian công cộng và xuất bản <span style="font-style:italic;">The Wrong Times</span>, một tờ nhật báo đăng phỏng vấn của các nghệ sĩ từng triển lãm tại <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span>. Cattelan, Gioni và Subotnick gần đây đã trình bày triển lãm <span style="font-style:italic;">“Thất vọng vì luật pháp”</span>, một triển lãm trong vòng một ngày đêm tại<span style="font-style:italic;"> Whitney Biennale (2006)</span>. Nhóm giám tuyển ba người này đã giám tuyển <span style="font-style:italic;">biennial Berlin cho nghệ thuật đương đại</span> lần thứ 4, có tên là <span style="font-style:italic;">“Của Chuột và Người” (2006).</span><br />________________<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Lời giới thiệu:</span> Theo bước đi của <span style="font-style:italic;">Kem</span> [Cream] (1998), <span style="font-style:italic;">Kem tươi</span> [Fresh Cream] ( 2000) và <span style="font-style:italic;">Kem 3</span> [Cream 3] (2003), <span style="font-style:italic;">Kem lạnh: Nghệ thuật đương đại trong văn hóa</span> [Ice Cream: Contemporary Art in Culture] là một cuộc khảo sát toàn cầu về một số các nghệ sĩ đang-lên quan trọng nhất ngày nay. Với tập hợp của 100 nghệ sĩ được một nhóm 10 giám tuyển nổi tiếng thế giới tuyển lựa, cuộc triển lãm-trong-sách này sắm vai trò như một bản chỉ dẫn về các xu hướng nghệ thuật trong tương lai.<br /><br />10 giám tuyển quan trọng được <span style="font-style:italic;">Phaidon</span> lựa chọn dựa vào tri thức, viễn kiến sắc sảo và quan điểm có tính phê phán của họ. Trước hết, mỗi giám tuyển sẽ đề cử 10 nghệ sĩ mà họ cảm thấy là đại diện tốt nhất cho lớp “váng kem” của nghệ thuật đương đại hiện tại. Sau đó, họ sẽ làm việc với các nghệ sĩ ấy để lựa chọn ra các tác phẩm tốt nhất và có tính tiêu biểu nhất của từng nghệ sĩ để đưa vào cuốn sách này. So với cả loạt sách, cuốn sách này có một sự phá cách mới mẻ khi nó đưa <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span> vào vai trò một trong 10 giám tuyển. Khác với 9 giám tuyển còn lại, nhóm giám tuyển từ <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span> chỉ lựa chọn các nghệ sĩ trên 60 tuổi mà gần đây tái xuất hiện trong ý thức của thế giới nghệ thuật đương đại. Sự giao cắt giữa các thế hệ này không thường thấy trong các cuốn sách tập trung vào các nghệ sĩ chưa nổi tiếng và nó sẽ đưa lại một độ sâu cũng như hương vị đặc biệt cho Kem lạnh.<br /><br />Cùng lúc ấy, <span style="font-style:italic;">Kem lạnh</span> cũng đề nghị một cái nhìn toàn cảnh vào khung cảnh đương đại toàn cầu hóa với tốc độ dần tăng. Hơn bao giờ hết, để hiểu được các phát triển cận thời nhất trong nghệ thuật, khả năng quan sát vượt khỏi các biên giới địa lý là vô cùng quan trọng, và các giám tuyển của <span style="font-style:italic;">Kem lạnh</span> đã sử dụng hiểu biết của họ về các khung cảnh thường nhật – ở đây bao gồm hơn hai tá quốc gia vòng quanh địa cầu – để tìm ra các nghệ sĩ đang-lên quan trọng nhất ngày nay, mà không đặt nặng vấn đề các nghệ sĩ đó chọn nơi đâu để thực hiện tác phẩm.<br /><br />Giống với <span style="font-style:italic;">Kem 3</span>, các giám tuyển cũng tuyển lựa thêm 10 nghệ sĩ nguồn [source artist] từ thế hệ trước, tức những người tạo ra ảnh hưởng và là nguồn cảm hứng cho cả họ lẫn các nghệ sĩ mà họ tuyển lựa vào đây. Sự thêm vào của các cái tên danh tiếng này sẽ cung cấp cho người đọc cơ hội phản tư vào tác phẩm của các nghệ sĩ đang-lên từ một điểm nhìn thuận lợi.<br /><br />Các sáng tạo khác trong cuốn sách này bao gồm những cách ứng phó dũng cảm trước thách thức của việc miêu tả các tác phẩm mà tự bản chất là có tính nhất thời và phù du. Ví dụ, Tino Sehgal là một nghệ sĩ lựa chọn cách không bao giờ chụp lại tác phẩm của mình, mà thích để mọi người trải nghiệm trực tiếp, hoặc chí ít, được nghe kể lại về chúng từ những người đã trải nghiệm trực tiếp. Để đưa được nghệ sĩ này vào cuốn sách, giám tuyển Jens Hoffmann đã phải tìm cách tạo ra các “văn bản/hình ảnh” miêu tả về các màn trình diễn của ông.<br /><br />Lẽ cố nhiên, người ta không thể mô phỏng được sự trải nghiệm nghệ thuật của mỗi cá nhân và không gì thay thế được việc xem nghệ thuật ngay trong văn cảnh thông thường của nó. Tuy nhiên, qua việc kết hợp nghệ thuật với các thông tin được thu thập qua hàng năm trời nghiên cứu khắp hoàn cầu, hy vọng <span style="font-style:italic;">Kem lạnh</span> sẽ cung cấp được một nguồn vốn phong nhiêu và súc tích để bạn đọc có thể nghiền ngẫm.<br /><br />--------<br /><br />Tiếp theo <a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/01/chuyen-e-giam-tuyen-10-giam-tuyen-100.html"><span style="font-weight:bold;">kì 1</span></a><br /><br /><br /><span style="font-weight:bold;">Midori Matsui<br /></span><br />Với tôi, câu hỏi về sự tham dự của nghệ sĩ trong việc xác quyết nội dung triển lãm là một câu hỏi thú vị, bởi nó làm rõ ra khía cạnh hai mặt của dạng thực hành này. Sự tham dự ấy vừa có thể củng cố chủ đề cụ thể của một triển lãm, phản ánh các hiệu ứng của dạng nghệ thuật về các mối quan hệ [Relational art][1], song cũng có thể ngáng trở tính độc lập của một viễn kiến giám tuyển trong một triển lãm theo chủ đề, tức chất vấn thẳng thừng vào thẩm quyền của giám tuyển. Tôi cho rằng việc <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span> và một số nhóm nghệ sĩ cộng tác được đưa vào Whitney Biennial (2006) đã thể hiện chính xác khía cạnh hai mặt vừa nêu[2]. Nó minh họa một trong những khung cốt có tính khái niệm của Biennial; ý nghĩa của các nhóm nghệ sĩ cộng tác ngày nay. Xu hướng này đặt câu hỏi về thẩm quyền của các dạng quyền lực độc tôn, để thay vào đó, cung cấp một mô hình cho một kiểu thực hành nghệ thuật loãng động hơn. Dẫu thành công hay thất bại, các nhóm nghệ sĩ cộng tác đã chỉ ra khả thể thực hành của một mạng lưới quan hệ cho phép các cá nhân thực hiện tác phẩm của mình, trong khi cùng lúc cống hiến cho các nhiệm vụ vượt xa hơn giới hạn của năng lực cá nhân.<br /><br />Thực hành này được chức năng hóa theo một phong cách gợi nhớ về ý tưởng “mạng lưới” của Marshall McLuhan. Ý tưởng đó phản ánh cách chúng ta thực sự làm việc bên nhau trong các tình huống xã hội hay sáng tạo ngày nay, đặc biệt là thông qua internet. Qua việc chức năng hóa một triển lãm mà trong đó tài năng cá nhân vẫn được duy trì tiêu chuẩn chủ đạo, Whitney Biennial không chỉ thách thức các giả định có ảnh hưởng từ lịch sử nghệ thuật truyền thống, mà còn nhấn mạnh khả năng của triển lãm đương đại; phản ánh các mối quan tâm tiềm tàng và các thực hành giải tâm của thế giới đương đại. Tính loãng động này mang trở lại tinh thần của <span style="font-style:italic;">Trào lưu Ngẫu biến</span> [Fluxus] qua việc tạo sinh ra một cảm xúc tương tự về sự tự do và niềm vui thú.<br /><br /><span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery </span>nhắc tôi nhớ lại về một dự án gọi là Nasubi Gallery, do nghệ sĩ Nhật Bản Tsuyoshi Ozawa tổ chức và điều phối (xem trang 284-7) vào khoảng đầu thập kỷ 90 tại Tokyo và các thành phố khác tại Nhật Bản. Anh đã cho dựng ở các góc phố một phòng nhỏ bằng các mảnh gỗ từng được sử dụng để vận chuyển các chai sữa tới các gia đình Nhật vào hồi thập kỷ 60, rồi hỏi mượn các bè bạn nghệ sĩ của mình các tác phẩm của họ để trưng bày trong cái “gallery” di động này. <span style="font-style:italic;">Nasubi Gallery,</span> <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span>, cũng như Berlin Biennial (2006) và triển lãm <span style="font-style:italic;">“Trạm không tưởng” </span>[Utopia Station] (2003), tất cả chúng đều nới rộng các ý tưởng ngẫu biến về nghệ thuật như thể trò vui và sự tái xác tín vào tính độc lập của nghệ sĩ trong việc xác quyết hình thức và nội dung triển lãm – một thực hành từng là đương nhiên và thông thường của thập kỷ 60 và 70. Song vào thập kỷ 80, dạng triển lãm theo chủ đề đã lên ngôi[3]. Với dạng triển lãm này, một viễn kiến giám tuyển độc tôn – tương tự với sự diễn giải văn bản văn chương của một phê bình gia văn chương hay cách đọc có tính phát hiện triệu chứng về các hiện tượng xã hội trong vai trò “các văn bản” của một phê bình gia hậu cấu trúc thuộc ngành nghiên cứu văn hóa – đã bắt đầu chiếm lĩnh trận địa.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/-Rwwcm2xbUoQ/TyFmziF7HeI/AAAAAAAABgY/TGDqARRhep8/s1600/img_1552.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 240px; height: 320px;" src="http://1.bp.blogspot.com/-Rwwcm2xbUoQ/TyFmziF7HeI/AAAAAAAABgY/TGDqARRhep8/s320/img_1552.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5701951638738771426" /></a><br />Nasubi Gallery<br /><br />Massimilliano Gioni và Sergio Edelsztein cổ vũ cho sự tái xác tín vào tính độc lập của nghệ sĩ, và tôi cảm thấy mình chia sẻ được với quan điểm này. Tôi đặc biệt thích xác nhận của Massimilliano rằng một giám tuyển là một kẻ “đồng hội đồng thuyền”, một “chất xúc tác”, cũng như tuyên bố của ông rằng “chả có nguyên tắc nào” cho mối quan hệ được thiết lập giữa giám tuyển và nghệ sĩ. Tiếp cận của bản thân tôi về vai trò giám tuyển nằm đâu đó giữa kẻ diễn giải về một hiện tượng nghệ thuật – phản hồi của các khát vọng, hy vọng và những mối băn khoăn ẩn giấu về thời đại chúng ta, và một kẻ đồng hội đồng thuyền của nghệ sĩ.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Olesya Turkina</span><br /><br />Chủ đề về sản phẩm của giám tuyển dẫn chúng ta tới chủ đề về đặc tính của lao động giám tuyển. Áp dụng định nghĩa của Toni Negri và Michael Hardt, có thể miêu tả công việc vô hình của giám tuyển như một sự tổng hợp của lao động trí tuệ và lao động tạo ra hiệu ứng. Chúng ta sản tạo ra các tư tưởng, các mô hình tưởng tượng loãng động và các kết nối về mặt xã hội. Qua việc chọn lựa, tái sắp xếp, và dàn dựng các nghệ phẩm, chúng ta cũng sản tạo ra các hiệu ứng cụ thể. Negri và Hardt, phát triển thuật ngữ của Michael Foucault, đã viết về hình thức mới của quyền bá chủ [Hegemony] ngày nay; quyền bá chủ của dạng lao động “chính trị-tiểu sử” [bio-political labour]. Điều này dẫn đến hậu quả không chỉ trong việc sản tạo các vật thể hữu hình mà còn trong việc sản tạo các kết nối xã hội cũng như bản thân đời sống xã hội. Như một nhà tiền phong của đội quân lao động mới thành hình này, các giám tuyển đang đối mặt với một trách nhiệm lớn lao. Loại hình lao động này không thải trừ sự thâm canh [exploitation] mà thay đổi đặc tính của nó. Tuy nhiên, điều khó khăn nhất là ứng dụng được loại hình thâm canh mới này vào thực hành giám tuyển.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/-Xav4k4ODAbg/TyFnBwP17BI/AAAAAAAABgk/xnILHCyp1No/s1600/7829_128021987263_668022263_2228760_7887856_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 279px;" src="http://4.bp.blogspot.com/-Xav4k4ODAbg/TyFnBwP17BI/AAAAAAAABgk/xnILHCyp1No/s320/7829_128021987263_668022263_2228760_7887856_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5701951883056638994" /></a><br />Tác phẩm của Hélio Oiticia,<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Lisette Lagnado</span><br /><br />Tôi không vội đánh giá về việc nghệ sĩ sắm vai trò giám tuyển, mà quan tâm đến việc liệu họ có một nền tảng phê phán hay không. Tôi nói vậy bởi bất kỳ công việc giám tuyển nào đều đòi hỏi khả năng đọc các thực hành nghệ thuật và sự đọc này thậm chí có trách nhiệm của việc viết lại lịch sử. Tôi chưa bao giờ làm việc cùng một nghệ sĩ-giám tuyển, có lẽ bởi ở Brazil các nghệ sĩ danh tiếng nhất đều mắc phải ba kiểu dịch bệnh; Chủ nghĩa hình thức theo cảm thức Greenberg, chủ nghĩa Marx theo cảm thức Adorno, và sự chi phối của các mối quan hệ thân tình theo kiểu “anh em ta”. Một phê bình gia nghệ thuật hay giám tuyển nên duy trì một khoảng cách không thiên vị (dù điều này không luôn đúng) để tạo ra một quan điểm có tính luân lý, và điều này với tôi mang tính cốt yếu.<br /><br />Giám tuyển có thể là một sử gia nghệ thuật, song cũng có thể là một nhà nhân học, một nhà địa lý hay một kỹ sư về điện ảnh. Nếu chúng ta không quên mất việc chủ đề ở đây luôn là mỹ học, thì tại sao giám tuyển lại không phải là những người nói trên cơ chứ? Ở Brazil, nguyên nhân chủ yếu là bởi hoàn toàn không có trường dạy về lý thuyết nghệ thuật, thế nên các triết gia đã nhận lãnh vai trò ấy, gom tụ nghệ sĩ xung quanh một khái niệm nào đó. Các triển lãm kiểu này thường xuyên là những dạng minh họa cho một luận đề, và kết cục là chúng chỉ hạn chế các nghệ sĩ mà thôi. Chúng kết cấu nên các biệt phòng rất “trí tuệ” dành cho những kẻ diễn giải nghiệp dư về Kant hay Hegel, và ngày nay thì cho những kẻ nhai ngấu nghiến Jaques Derrida và Gilles Deleuze. Không may làm sao, tất cả các nền tảng này lại không bảo chứng được cho một con mắt xanh về nghệ thuật, tức chất lượng khách quan và trực giác quan trọng nhất mà một phê bình gia hay giám tuyển phải sở hữu. Từ quan điểm này, tôi sẽ nói rằng, sẽ có những lợi thế nếu các nghệ sĩ thực hiện công việc truyền thông về tiến trình sáng tạo.<br /><br />Những cuộc thảo luận tốt nhất tôi từng tham gia, tức những gì xây nên quan điểm nghệ thuật của tôi, là những cuộc thảo luận với các nghệ sĩ mà tôi coi là các bản đối ứng xã hội hơn là các “đồng nghiệp” của tôi. Tất cả những gì tôi học được trong nghệ thuật đều là từ những con người tuyệt vời như Rivane Neuenschwnader, Leonilson, Laura Lima, Dominique Gonzalez-Foerster, còn trong công việc viết lách, thì là từ Mira Schendel và Walterico Caldas. Tôi cũng sẽ phải kể tới tên của Hélio Oiticia, là người tôi chưa từng gặp mặt, song đã đối thoại với các trước tác của ông khi tổ chức khối tư liệu của ông. Ông là một nghệ sĩ sở hữu vốn lý thuyết, song các tác phẩm của ông còn xuất hiện trong những lĩnh vực như vũ đạo, kiến trúc, âm nhạc, kịch nghệ, phim ảnh và truyền hình.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Philipe Verge</span><br /><br />Câu hỏi “công việc của một giám tuyển là gì?” là một dạng câu hỏi bẫy. Tôi hy vọng rằng có bao nhiêu giám tuyển trong lĩnh vực này thì sẽ có bấy nhiêu câu hỏi tương tự, và rằng nghề nghiệp này đủ mở ngỏ để cho không một ai có thể trả lời được câu hỏi như thế. Molly Nesbit, trong một buổi trò chuyện gần đây tại Bảo tàng Whitney, đã đề cập tới ý niệm về “các trí thức hữu cơ” [organic intellectuals]. Tôi thực sự muốn ý niệm này được áp dụng cho một giám tuyển. Trong lãnh vực nghệ thuật đương đại, sự đa bội của những gì nằm dưới thuật ngữ “giám tuyển” là vô cùng rộng lớn; giám tuyển làm việc cho các định chế, giám tuyển của các bộ sưu tập, giám tuyển tự do, giám tuyển cho gallery, giám tuyển cho các nhà sưu tập cá nhân… Tôi chỉ có thể trả lời từ góc độ nghề nghiệp mà tôi nắm rõ; giám tuyển làm việc cho định chế. Tôi làm việc cho một định chế công, ở đó, công việc của tôi liên quan tới các triển lãm và bộ sưu tập; ở đó, tôi và một nhóm cộng tác được định vị tại nơi tiếp giáp giữa nghệ sĩ và công chúng. <br /><br />Định chế của tôi vừa mang chức năng bảo tàng vừa mang chức năng <span style="font-style:italic;">nhà triển lãm luân phiên</span> [Kunsthalle], và như vậy, chúng tôi có thể quan sát hiện tại từ một quan giác có tính lịch sử. Hoặc cũng có thể nói, chúng tôi sở hữu cơ hội quan sát lịch sử thông qua quan giác thuộc hiện tại. Chúng tôi sở hữu lợi thế của tình trạng lệch thời [anachronistic]. Các trách nhiệm của chúng tôi hướng một cách quân bình tới cả các nghệ sĩ trẻ lẫn các nghệ sĩ đã thành danh, và không hề có sự phân chia nào ở đây. Nói về trách nhiệm thì có lẽ có đôi chút kiêu ngạo, song làm việc nơi một định chế công, tôi tin rằng chúng tôi thực sự nhận gánh trách nhiệm. Trong vai trò các giám tuyển, chúng tôi cung cấp một vị trí cho dạng thảo luận không thể tồn tại trong “thế giới thực”, tức địa chỉ bị lập trình hóa quá mức bởi các mối quan tâm đối lập nhau; báo chí và truyền thông đại chúng. Chúng tôi sở hữu cơ hội để thực hiện một tiến trình biên tập, để cung cấp một sự phá cách không theo cảm thức tiền phong xưa cũ, thiên về sự “phản kháng”, – mà thiên về “song hành”. Tuy nhiên cái chương trình lõi cốt này cũng được định nghĩa và được tạo cảm hứng nhờ vào thực hành của nghệ sĩ.<br /><br />Nếu ta muốn thực hiện điều gì đó khác đi trong phạm vi định chế, sự khó khăn sẽ nằm ở việc các định chế luôn đo đếm các hành vi bằng sự thành công có tính cộng góp; các con số từ phòng bán vé, hay sự đồng thuận cuối cùng từ số đông. Tư duy phá cách và thành công theo kiểu được định nghĩa bởi thế giới kiểu cổ đông theo mô hình tư bản hậu kỳ không thể song hành cùng nhau. Nó dẫn tới một hình thức của sự tự kiểm duyệt, một sự trung tính hóa. Trong vai trò các giám tuyển (làm việc cho định chế), chúng tôi có vẻ như cần tái chế tạo thước đo về những gì chúng tôi muốn định nghĩa là thành công. Điều này có lẽ đòi hỏi phải tạo ra khoảng cách với một số khu vực của thị trường, dù không phải với toàn bộ thị trường. Tôi vẫn học được rất nhiều từ các nhà đại diện nghệ thuật [dealer]. Song chúng tôi phải ngưng việc tư duy dưới ảnh hưởng từ thị trường. Hai lãnh địa này khác nhau như trời và đất. Duy nhất một vấn đề sẽ nảy ra nếu quyết định lắng nghe, hay tuân lời các nàng thơ hay các kỹ nữ thị trường, đó là việc, bắt đầu từ đó, ta sẽ không bao giờ còn có thể sống thiếu họ.<br /><br />Và đây là những gì, trong vai trò các giám tuyển, chúng tôi đã thực hiện; Chúng tôi duy trì sự độc lập của mình. Song, bởi tham dự vào dự án <span style="font-style:italic;">Kem lạnh</span>, chúng tôi có vẻ lại đã cung cấp dinh dưỡng cho thị trường. Phải chăng chúng ta đang thu thập một dạng danh-sách-chờ về các món ăn ngon nhất của năm? Phải chăng chúng ta đang đặt các nghệ sĩ như thể các sản phẩm lên một bệ trưng bày ở vị trí bắt mắt? Câu hỏi này tương tự với câu hỏi đặt ra cho hầu hết mọi triển lãm ngày nay. Trong vai trò các giám tuyển, liệu chúng ta có thể từ khước sự thật này? Và liệu có nên không? Hay vai trò của chúng ta là tìm kiếm những gì nằm phía ngoài “nền công nghiệp”? Song thậm chí cả khi làm thế, ngành công nghiệp sẽ chỉ mất bao lâu để rồi lại ‘tiêu thụ” các lựa chọn của chúng ta, hoặc bằng cách thổi chúng lên trong một ấn phẩm công cộng, một biennial, hay một cuốn sách như Kem lạnh? Chúng ta phục vụ ai? Và có phải chúng ta đang làm công việc phục vụ? Tôi đặt ra những câu hỏi này không phải để mua vui, mà thực sự không có các câu trả lời cho chúng.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/-BWRX3WZQAGM/TyFnP0GuG8I/AAAAAAAABgw/GT1BiWUmSqU/s1600/7829_128023577263_668022263_2228775_6561445_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 313px; height: 320px;" src="http://1.bp.blogspot.com/-BWRX3WZQAGM/TyFnP0GuG8I/AAAAAAAABgw/GT1BiWUmSqU/s320/7829_128023577263_668022263_2228775_6561445_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5701952124610288578" /></a><br />Tác phẩm “<span style="font-style:italic;">The Elementary Particles</span> (Paperback Edition)” của Oscar Tuazon, một nghệ sĩ tham gia vào triển lãm <span style="font-style:italic;">“Down By Low” </span>do The Wrong Gallery giám tuyển tại Whitney Biennial 2006<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Massimiliano Gioni, The Wrong Gallery</span><br /><br />Bình luận của Philipe Vergne đã dẫn chúng ta đến một điểm mấu chốt – mối quan hệ giữa định chế, các giám tuyển và nghệ sĩ. Trong vai trò các giám tuyển, chúng ta cam kết bản thân với nghệ sĩ, song chúng ta cũng lại phục vụ cho các định chế. Kể cả nhân vật độc lập nhất trong số chúng ta cũng sẽ phải làm việc cho một ai đó – một bảo tàng, một bộ sưu tập, một quỹ, một triển lãm hay một gallery. Như thế, chúng ta vừa đọc lý thuyết, lại vừa phải đảm bảo các thời hạn cuối [deadlines], vừa tìm tài trợ, vừa phải cân bằng thu chi; thậm chí chúng ta đôi khi còn phải hạn chế lại các đòi hỏi của nghệ sĩ. Và điều tệ nhất xẩy tới cho chúng ta là khi chúng ta trở nên quan liêu. Còn điều tốt nhất là khi chúng ta có thể khuyến khích các định chế tái tư duy về bản thân, về căn tính, về ngôn ngữ và chiến lược của mình.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Gloria Sutton</span><br /><br />Ý niệm về một “trí thức hữu cơ” như Philippe Vergne đưa ra là vô cùng hấp dẫn. Tôi không chắc về cách sử dụng thuật ngữ của Nesbit, song thuật ngữ này gắn buộc một cách cố hữu với Antonio Gramsi, và với tôi, nó được nối khớp một cách hiệu quả nhất qua trước tác của Cornel West, người miêu tả “trí thức hữu cơ” như một trí thức không đơn thuần chỉ hạn chế bản thân với sự nghiệp chuyên môn của mình, mà còn lao động để nhắm tới việc cải tạo xã hội. Phép tu từ xung quanh khả năng khơi động các thay đổi về mặt xã hội của nghệ thuật đương đại thì đã cũ, còn xung quanh khả năng cung cấp một văn cảnh cho sự cải tạo xã hội của các bảo tàng và giám tuyển thì lại yếu ớt. Đây không phải là một sự phê phán. Cũng như thế, giới kinh viện khó có thể là một địa chỉ cho các diễn ngôn cấp tiến. <br /><br />Để hỗ trợ cho việc nối khớp một vai trò loãng động hơn cho các trí thức, Gramsci cũng tiến đến một ý niệm mà theo tôi miêu tả được việc làm thế nào mà rất nhiều giám tuyển lại có khả năng hoạt động một cách khéo léo trong môi trường theo định hướng thị trường ngày nay – như được Massimiliano mô tả rất xác đáng là “phục vụ cho các định chế”. Các giám tuyển thường xuyên hoạt động trong “dạ dày cá mập” [in the belly of the beast]. Tôi sử dụng thành ngữ này khi miêu tả những gì giống với việc hoa tiêu ra mưu đồ tăng cường quyền lực [machinations] của một bảo tàng hay một đại học có khởi xuất một chương trình nghiên cứu cỡ lớn. Sở hữu quyền tiếp cận và năng lực tự chủ để hành động [agency] bên trong “con cá mập”, lẽ cố nhiên, là một vị trí đặc quyền.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Jens Hoffmann</span><br /><br />Xác nhận rằng các giám tuyển chỉ phục vụ cho nghệ sĩ, hay rằng họ là bạn đồng hội đồng thuyền với nghệ sĩ đã được các giám tuyển đưa ra từ lâu. Giờ là lúc nên trung thực và công nhận rằng có lẽ có một mối quan hệ giữa các giám tuyển và nghệ sĩ khác hơn vai trò đầy khúm núm nêu trên. Tôi muốn đưa ra một ý kiến mà hẳn là sẽ gây kích động, rằng; chính các giám tuyển, chứ không phải các nghệ sĩ, mới là những người cống hiến các hiệu ứng nghệ thuật tạo ra được các thay đổi lớn lao trong thế giới nghệ thuật (ở đây, lẽ dĩ nhiên là tôi nói tới cả các hiệu ứng tích cực và tiêu cực). Các giám tuyển tạo khả năng cho nghệ sĩ làm việc trong một địa bàn hay một môi trường xã hội rộng lớn hơn, và ở một số trường hợp, với các khả thể lớn lao hơn chưa từng hiện hữu trước đó. Giọng điệu của tôi khi thực hiện một triển lãm thì cũng quan trọng ngang bằng giọng điệu của nghệ sĩ. Tôi không có gì ngại ngùng khi công nhận điều này. <br /><br />Trong những triển lãm nhóm, tôi sử dụng các tác phẩm để phục vụ cho một viễn kiến giám tuyển đồng bộ (không theo nghĩa chúng là những minh họa cho ý tưởng của tôi, mà là sự giải phóng một cách biểu tượng cho ý tưởng ấy). Các chủ đề này loãng động hơn mức có thể được chứng minh tại đây. Tất cả chúng ta đều hiểu việc làm thế nào một nghệ phẩm khơi hứng cho một ý tưởng triển lãm, rồi việc làm thế nào các tác phẩm trong studio mở rộng thêm cho chủ đề triển lãm này. Nghề nghiệp của tôi là chế biến, là tuyển lựa và chọn lọc, song cũng là đưa ra một khung xương và trình bày một quan điểm.<br /><br />Tôi ngày càng thấy thích thú với ý tưởng coi giám tuyển như thể tác giả và nhà sáng tạo hơn là một người điều phối hay một nhà quản lý triển lãm. Một sự thay đổi hình hệ rõ ràng trong công việc giám tuyển diễn ra trong khoảng mười lăm năm qua chính là kết quả của sự sáp hợp các chiến thuật kiểu nghệ sĩ vào công việc giám tuyển, tức điều đã thay đổi cách hiểu của chúng ta về nghề nghiệp này. Hãy còn là quá sớm để phân tích các hiệu ứng mà sự thay đổi ấy tạo ra trên toàn bộ con đường phát triển của công việc giám tuyển và làm nghệ thuật, cũng như để phân tích việc đâu là kết quả do sự thay đổi này mang lại cho mẫu hình triển lãm và chương trình của các định chế nghệ thuật, song công việc giám tuyển rõ ràng đã tự tái tạo bản thân và sự tái tạo này chẳng có gì giống với cuộc hồi quy về một tình huống cũ xưa, khi các giám tuyển được tri nhận như thể một kẻ tạo điều kiện làm việc thuận lợi và kẻ được thuê để trông nom công việc [caretaker].<br /><br />Sẽ rất thú vị khi sử dụng ý niệm của Foucault về tác giả như được trình bày trong tiểu luận “Một tác giả là gì?” để minh họa cho ý tưởng về giám tuyển như thể tác giả triển lãm.[4] Ông miêu tả quyền tác giả như “một nguyên tắc có tính chức năng cụ thể nhờ đó, trong nền văn hóa của chúng ta, người ta giới hạn, loại thải và chọn lựa”. Kết quả của tiến trình chọn lựa này có thể trở nên những gì mà chúng ta gọi là một tạo vật tân kỳ và độc đáo, với hành vi sáng tạo của nó chỉ là chuyển hóa sự hỗn loạn vào trật tự, hay hành vi tuyển lựa của nó là để chống lại số lượng miên viễn của các khả thể. Đây có lẽ sẽ chính là những gì mô tả về một giám tuyển; kẻ hạn chế, thải loại, sáng tạo ý nghĩa bằng các ký hiệu, mã và chất liệu có sẵn. Tuy nhiên, trong phạm của vi tiến trình thực hiện triển lãm, giám tuyển bị giải tâm, và chỉ còn là bộ phận thuộc một kết cấu lớn hơn, tức một quan điểm chủ quan, chứ không phải là tâm điểm của toàn bộ.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Massimiliano Gioni, The Wrong Gallery</span><br /><br />Có lẽ tôi chỉ là một dạng nô bộc hay đơn giản, là kẻ làm công việc phục vụ nghệ sĩ. Song tôi có xu hướng nghĩ về bản thân và nghề nghiệp của chúng ta (mặc dù tôi không chắc liệu đây có phải là nghề nghiệp hay không nữa) như thể điều gì tương tự với vai trò của một kẻ đọc, kẻ đọc đầu tiên (Robert Storr từng sử dụng ẩn dụ này và với tôi nó thật thú vị), hay một biên tập viên. Cũng có những tài năng sáng tạo trong số các biên tập viên vĩ đại, song hẳn tôi sẽ băn khoăn lắm, và không cảm thấy thoải mái khi tự coi mình là một tác giả. Thật hài hước là trong cuốn sách<span style="font-style:italic;"> Empire</span> [Đế quốc], in năm 2000, của Negri và Hardt, một tác phẩm được các giám tuyển trích dẫn nhiều nhất, lại có sự khẳng định rằng thánh Francis là một nhà cách mạng chân chính và tối thượng; một thầy tu giản dị nhất, kẻ hầu như chỉ đi lòng vòng và quan sát vẻ đẹp của thế giới.[5]<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/-Ih3cJNjuD-c/TyFncYF_0vI/AAAAAAAABg8/voWAdiYYdzk/s1600/7829_128022497263_668022263_2228771_4427556_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 280px; height: 320px;" src="http://4.bp.blogspot.com/-Ih3cJNjuD-c/TyFncYF_0vI/AAAAAAAABg8/voWAdiYYdzk/s320/7829_128022497263_668022263_2228771_4427556_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5701952340429361906" /></a><br />Tác phẩm của nghệ sỹ Maurizio Cattelan<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Maurizio Cattelan, The Wrong Gallery</span><br /><br />Tôi cảm thấy có chút ngại ngần khi tham gia vào cuộc trao đổi này, một chút gì như thể cảm thấy mình là kẻ ngoại cuộc. Hầu hết công việc tôi thực hiện cùng Massimiliano và Ali đều diễn ra rất tự nhiên, vắng bóng hoàn toàn sự tư biện về việc chúng tôi làm gì, và tạo sao lại làm vậy. Tôi tự hỏi tại sao mọi cuộc trao đổi giữa các giám tuyển đều bắt đầu với việc tìm cách định nghĩa về vai trò của giám tuyển? Phải chăng đây là một chứng hoang tưởng, một nỗi bất an, hay một tội cảm? Tại sao chúng ta không quên phắt nó đi và bàn về nghệ thuật, về nghệ sĩ, hay về các sự vật mà chúng ta quan sát thấy, muốn thảo luận, muốn trao đổi hay có hứng thú. Tôi không hề có ý phê phán; đây hoàn toàn chỉ là một quan sát. Tôi tự hỏi liệu khi các nghệ sĩ được yêu cầu thảo luận cùng nhau, việc trước nhất mà họ thảo luận có phải là về vai trò của họ?<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Midori Matsui</span><br /><br />Việc sử dụng một số khung lý thuyết để diễn giải ý nghĩa và hiệu ứng của nghệ thuật đương đại đã được đưa vào ngành phê bình nghệ thuật từ thập kỷ 80 và 90. Berlin Biennial (2006) có lẽ là minh dẫn cho một sự chuyển đổi trong quan niệm về các triển lãm, một sự chấp nhận trong phạm vi khung cốt chính thống về một dạng triển lãm mở rộng ra ngoài các bức tường bảo tàng để thách thức lại chính kiểu viễn kiến tổ chức độc quyền này. Nó cũng còn là một sự phục sinh và truyền bá lý thuyết về cái thường nhật từng được Michel de Certeau tạo hình rõ ràng vào thập lỷ 70, và được làm phong nhiêu nhờ vào các tình huống phức tạp của kỷ nguyên toàn cầu.[6]<br /><br />Việc lựa chọn sử dụng lý thuyết để diễn giải ý nghĩa của một nghệ phẩm hay tình huống cụ thể có lẽ liên quan sâu sắc tới quan điểm của mỗi cá nhân nào đó trong thế giới (bao gồm tình huống văn hóa, thế hệ, hay giống v.v… của cá nhân ấy). Mặc dù sự chuyển giao quyền lực về lý thuyết cho giám tuyển đôi khi tạo quá nhiều quyền lực cho họ, đặc biệt tại những triển lãm theo chủ đề, nó lại có thể giúp các giám tuyển làm rõ các cách thể hiện cụ thể của nghệ thuật và văn hóa đương đại. Các nghệ phẩm thường xuyên sở hữu các câu trả lời ngầm giấu về các thay đổi trong thế giới,tức những gì có thể được đưa ra ánh sáng nhờ vào một ngôn ngữ lý thuyết, trong trường hợp ngôn ngữ ấy được áp dụng đúng cách. Sẽ rất hay nếu được nghe mỗi giám tuyển trình bày về việc họ làm cách nào sử dụng lý thuyết để xây dựng nên một viễn kiến giám tuyển cho mình.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Ali Subotnick, The Wrong Gallery</span><br /><br />Tôi lại có một cảm thức về nghệ thuật đậm chất bản năng và riêng tư. Tôi không quá dựa vào lý thuyết. Thật ra, một điểm mấu chốt của Berlin Biennial chính là việc nó dời xa khỏi lý thuyết. Việc lựa chọn tiêu đề <span style="font-style:italic;">“Của Chuột và Người”</span> [Of Mice and Man], cho triển lãm, nhìn một cách nào đó chính là một “đề nghị giản dị”, một gợi ý về việc ngưng đọc những cuốn sách và tham chiếu giống nhau để đi ra ngoài và tìm đến các tham chiếu khác, có lẽ trong văn chương hơn là trong lý thuyết.[7] Chúng tôi tin tưởng nhất quán vào tầm quan trọng của lịch sử và các tiểu sử cá nhân, vào văn chương và các ẩn dụ. Lý thuyết là một khái niệm mờ nhòa, do đó, nó hạn chế lại địa bàn thảo luận; địa lý, toàn cầu hóa hay xã hội học và một hiểu biết cụ thể về chính trị học đã đóng khung và nhiều lần, thậm chí giới hạn diễn ngôn xung quanh nghệ thuật đương đại. Chúng tôi có hứng thú trong một tập hợp các tham chiếu kiểu khác, và trong việc mở ra một quang cảnh của những nỗi xúc động, tức điều có lẽ tương thích cho bất kỳ cuộc thảo luận nào về nghệ thuật, và có lẽ đầy tham vọng, về nhân loại. Tôi chả có lý do gì để chống lại lý thuyết, song tôi không thích các triển lãm trở nên chỉ về lý thuyết, hay về một số hình thức lý thuyết cụ thể. Có vô số điều nằm ngoài lý thuyết, và tôi cho rằng chính nghệ sĩ đang khuyến khích chúng ta khám phá ra các tham chiếu và các kết nối mới mẻ.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Massimilliano Gioni, The Wrong Gallery<br /></span><br />Ở một cấp độ thực hành, với Berlin Biennial, ý tưởng về sự nới rộng triển lãm xa hơn các bức tường bảo tàng và đưa nghệ thuật vào các môi trường được kiểm soát như các căn hộ, các văn phòng, và các trường học bỏ trống v.v…, không định nhằm chống lại ý tưởng về một viễn kiến tổ chức độc tôn. Nó thiên về việc tìm kiếm các khuôn dạng [Format] và tốc độ khác nhau; Đây cũng là một phương cách nhằm đề nghị rằng chúng ta không luôn cần phải có một triển lãm biennial cỡ lớn – thật thú vị khi làm việc với các tình huống và khuôn dạng nhỏ hơn, thậm chí có tính thầm kín riêng tư. Nó nhắc nhớ chúng ta rằng bạn không thể đi khắp nơi với một chiếc xe tải kềnh càng; đôi khi bạn sẽ phải cần tới một chiếc xe đạp.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Midori Matsui</span><br /><br />Tôi đã chỉ đang tìm cách đối lập hai tiếp cận khác nhau về giám tuyển; cách thứ nhất phát triển từ sự cộng tác giữa các cá nhân với những quan điểm khác nhau, còn cách kia lại cung cấp một kiểu dạng, nhờ vào lý thuyết, diễn giải nghĩa mà nghệ phẩm và các hành vi của nghệ sĩ đưa ra. Một số giám tuyển tham gia vào cuốn sách này có vẻ thích sử dụng các khung hay sự thấu thị về lý thuyết để minh giải hay củng cố các viễn kiến độc đáo của họ. Tôi muốn đặt câu hỏi về việc họ sử dụng lý thuyết một cách cụ thể ra sao.<br /><br />Với tôi, lý thuyết không phải là một cỗ máy lạnh lẽo dùng để ngăn chặn hay giới hạn phương cách hồi phản của chúng ta. Nó là một kết quả từ sự suy lý chủ động nhằm hồi phản với các tình huống và thay đổi cụ thể trong các cấu trúc xã hội, tức những gì tác động tới phương cách ta cảm xúc và hành động. Tôi thấy ý tưởng của Roland Barthes về huyền thoại và lý thuyết khảo cổ học của Foucault rất có tính giải phóng và giúp ích cho việc hiểu được cấu trúc của xã hội tiêu dùng Nhật Bản vào thập kỷ 80. Chúng cũng giúp tôi hồi phản với nghệ phẩm của các nghệ sĩ đương đại theo một phương cách cộng cảm. Các văn bản triết học thời kỳ đầu của Deleuze giúp tôi nhận rõ năng lực tiềm tàng đầy sáng tạo của các công cụ biểu lộ phi chính thống như các tranh vẽ của trẻ tự kỷ, tức những gì tìm thấy được sự tương đương về mặt khái niệm nơi tác phẩm của một số nghệ sĩ. Trong khi một triển lãm được tạo ra từ sự hợp tác của các cá nhân với những quan điểm khác nhau sẽ cải tổ hoàn toàn thực hành truyền thống của việc giám tuyển theo chủ đề, nó lại hoàn toàn không hề bán tống bán tháo đi khả thể của việc thực hiện một triển lãm thú vị theo chủ đề.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/-byUb9Zeju9I/TyFntoDXcGI/AAAAAAAABhI/WgROwWCTyz4/s1600/7829_128025907263_668022263_2228806_2487762_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 211px;" src="http://1.bp.blogspot.com/-byUb9Zeju9I/TyFntoDXcGI/AAAAAAAABhI/WgROwWCTyz4/s320/7829_128025907263_668022263_2228806_2487762_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5701952636771070050" /></a><br /><span style="font-style:italic;">Nhà hát lề đường</span>, tác phẩm của George Maciunas [ thủ lĩnh trào lưu Fluxus]<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Philippe Vergne</span><br /><br />Lý thuyết, nói một cách nào đó, là những gì chúng ta áp dụng vào thực hành – song không trong vai trò của các học giả; cũng không theo kiểu các nhà kinh viện. Chúng ta cần được tiếp dưỡng chất bởi lý thuyết để rồi quên sạch nó đi, và chỉ còn lại sự độc lập của diễn ngôn có tính lý thuyết. Tôi thích những gì Thomas Hirschhorn nói về lý thuyết và triết học. Ông đọc nó, cần nó, thẩm nhập vào nó, và cùng lúc, không chắc là có thể hiểu tất cả về nó – không chắc cần hiểu tất cả về nó. Song ông biến nó thành của ông. Tôi thích ý tưởng rằng những gì chúng ta thực hành đều mang theo yếu tố của sự hiểu sai nói trên. Tôi thích ý tưởng rằng có lẽ chúng ta đang tạo ra một lịch sử từ sự hiểu sai<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Pili</span><br /><br />Tôi sở hữu một nền tảng lịch sử-nghệ thuật và sự khác biệt chính yếu giữa các triển lãm có tính lịch sử và các cuộc trưng bày đương đại nằm ở việc mối quan tâm của chúng ta dành cho “không gian trưng bày” [site] lên đến mức nào. Các nghiên cứu lịch sử sử dụng nghệ phẩm để minh họa một lý thuyết còn công việc giám tuyển đương đại lại làm cho nghệ phẩm tự hiển lộ thông qua trải nghiệm.<br /><br />Cách chúng ta định nghĩa nghề nghiệp của mình đương nhiên sẽ định hướng cho tiếp cận của chúng ta về công việc. Ý tưởng triển lãm của tôi luôn xuất hiện trong quá trình nghiên cứu về nghệ sĩ. Các ý tưởng tươi mới luôn đến từ các nghệ phẩm của nghệ sĩ chứ không từ lý thuyết. Tôi ghét sử dụng lý thuyết (dù là của tôi hay của người khác) như khung cốt cho triển lãm. Tôi thích sử dụng nghệ phẩm để thách thức hay cập nhật cho các lý thuyết cũ. Trải nghiệm công chúng có được từ không gian trưng bày là có tính quan trọng nhất. Để đạt tới điều này, tôi nghiên cứu nghệ phẩm một cách rất kỹ lưỡng. Trước khi mời nghệ sĩ, tôi tập trung sâu vào tác phẩm hơn là vào các bàn luận với nghệ sĩ về chúng, bởi tôi cho rằng sự tự hiển lộ là đặc tính quan trọng nhất của các nghệ phẩm tốt, và nó nên tách biệt khỏi các nền tảng văn hóa khác nhau. Chỉ điều này có thể làm cho triển lãm trở nên khả tri với đa số công chúng. Đôi khi, quá nhiều bàn luận có thể biến thành một hình thức ngăn trở giữa nghệ sĩ và giám tuyển. Bàn luận có thể khả dụng cho việc mở rộng tính tự hiển lộ, cho sự nhận thức về tác phẩm và triển lãm tốt hơn, song không phải lúc nào cũng được như vậy. Tôi cũng rất cẩn trọng với các tác phẩm đặt hàng; tôi thích dùng các tác phẩm có sẵn hơn. Tôi luôn muốn đặt hàng để phát triển các tác phẩm trước đó, chứ không để sử dụng cho chủ đề của triển lãm. Tôi không muốn tác phẩm được đặt hàng trở nên giống với kiểu đặt hàng cho nghệ thuật công cộng<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Sergio Edelsztein</span><br /><br />Tôi luôn cảm thấy dễ chịu khi thực hiện các triển lãm cá nhân và những nghiên cứu toàn diện về riêng một nghệ sĩ hơn là những triển lãm chung tìm cách định nghĩa điều gì đó theo một phương cách chung chung. Tôi không bao giờ thích các lý thuyết, tức những gì nhảy dù vào diễn ngôn nghệ thuật từ các khuôn phép khoa học khác (ngôn ngữ học, triết học, kinh tế học – thậm chí phân tích tâm lý) chỉ bởi các lý thuyết ấy thấy đặc tính thị giác của nghệ thuật sẽ là một khu vực mầu mỡ để minh dẫn cho chúng. Tuy nhiên, tôi hoàn toàn không có ý muốn cổ vũ việc thế giới nghệ thuật bị biệt giam khỏi các khuôn phép khoa học khác. Tôi tin rằng điểm khởi hành sẽ luôn phải nằm trong phạm vi những tham số nơi các mối quan tâm và các cuộc đối thoại của nghệ sĩ. Chúng ta từng chứng kiến quá nhiều lần các công việc giám tuyển mà ở đó điểm khởi đầu chỉ là một ý tưởng hay lý thuyết, và rồi “tiến trình giám tuyển” chỉ là lùng kiếm các tác phẩm minh họa một cách nô lệ cho ý tưởng hay lý thuyết ấy. “Cho tôi một chủ đề, và tôi sẽ làm cho anh một tác phẩm” chính là khẩu hiệu của dạng triển lãm này. Tôi có chút vấn đề với các biennials và các triển lãm cỡ lớn sinh ra từ một mối quan hệ lỏng lẻo giữa nghệ phẩm và nghệ sĩ được trưng bày.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Midori Matsui</span><br /><br />Tôi cảm thấy rất thú vị trước sự kháng cự này đối với lý thuyết để thiên ái hơn với các thảo luận cùng nghệ sĩ hay với sự gắn kết vào một không gian trưng bày cụ thể. Điều này mang chúng ta trở lại câu hỏi đầu tiên về vai trò hay về thực hành đang thay đổi của sự giám tuyển. Thực hành giám tuyển ngày nay đang trở nên giống nhiều hơn với hành vi của các nghệ sĩ – như các nghệ sĩ Ngẫu biến hay các nghệ sĩ Thực địa [Land Art] vào thập kỷ 60 và 70 – khi nó tìm cách đưa ra một sự kiện không được xác quyết về nghĩa. Thực hành giám tuyển theo kiểu này không được quan niệm như thể sự trình bày ra một viễn kiến hay một diễn giải, mà như thể sự lập vấn hay một hiện thể của hành động. Tôi không hề muốn chiết khấu hoàn toàn ý nghĩa của lý thuyết hay lịch sử nghệ thuật. Việc chọn lựa một số khái niệm lý thuyết này chứ không phải những khái niệm khác nên, và thường là như thế, làm rõ được sự định vị đạo đức của giám tuyển. Các ý thể lý thuyết được lựa chọn cẩn trọng minh họa cho công việc của nghệ sĩ, tức cơ sở cho việc tổ chức một triển lãm theo chủ đề, có thể trở nên một phương cách để mang đem các thái độ và cảm năng có tính cộng cảm lại bên nhau xuyên qua thời gian và không gian, và cũng là phương cách để sáng tạo nên một tập hợp trí tuệ. Tiếp cận này có lẽ đã lỗi mốt, song tôi không thấy bất kỳ lý do nào để phủ nhận nó hoàn toàn.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Kì 3<a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/01/chuyen-e-giam-tuyen-10-giam-tuyen-100_30.html"></a></span><br /><br /><span style="font-weight:bold;"><a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/01/chuyen-e-giam-tuyen-10-giam-tuyen-100_30.html">kì 3</a></span><br /><br />(Còn 2 kì)<br /><br />--------<br /><br />[1] <span style="font-style:italic;">Relational art </span>là khái niệm phái sinh từ khái niệm <span style="font-style:italic;">Relational Aesthetics</span> [Mỹ học của/về các mối quan hệ], là thuật ngữ do Nicolas Bourriaud đặt ra trong bài viết <span style="font-style:italic;">“Relational Aesthetics”</span> vào năm 1988, một bài viết được coi là văn bản có tính định nghĩa cho các nghệ sĩ xuất hiện tại châu Âu vào khoảng giữa thập kỷ 90. Trong bài viết này Bourriaud khảo sát ý niệm về mỹ học có tính quan hệ thông qua các ví dụ về những gì ông gọi là nghệ thuật có tính quan hệ. Mỹ học quan hệ, theo ông “bao gồm một loạt các thực hành nghệ thuật coi toàn bộ các mối quan hệ của con người cùng các văn cảnh xã hội và chính trị của các mối quan hệ ấy , chứ không phải là các không gian độc lập và riêng tư, là điểm khởi hành thực hành và lý thuyết của chúng . Ông nhấn mạnh “vai trò của tác phẩm không còn nằm ở việc tạo hình nên các thực tại có tính thuần tưởng tượng và không tưởng, mà thật ra chính là các phương cách sống và các mẫu hành động của hiện thực đời sống, với bất kỳ tầm mức nào mà nghệ sĩ lựa chọn. Trong dạng nghệ thuật có tính quan hệ, công chúng được hình dung như một cộng đồng. Hơn cả việc coi tác phẩm là một cuộc gặp gỡ giữa công chúng và vật thể, dạng nghệ thuật có tính quan hệ sản tạo ra các cuộc hội ngộ liên chủ thể. Nhờ vào các hội ngộ này, nghĩa sẽ được tạo chế một cách tập thể, chứ không phải chỉ được tạo ra trong sự tiếp nhận và tiêu thụ của cá nhân. (Chú thích của người dịch)<br /><br />[2] Các nhóm nghệ sĩ cộng tác khác bao gồm <span style="font-style:italic;">Jeniffer Allora và Gullermo Calzadilla</span>, <span style="font-style:italic;">Tập đoàn Bernedette </span>[Bernedette Coporation], <span style="font-style:italic;">Trung tâm Diễn giải Về việc Sử dụng Đất đai </span>[The Center For Land Use Interpretation], <span style="font-style:italic;">Lori Cheatle và Daisy Wright</span>, <span style="font-style:italic;">Hợp thể Nghệ Thuật Phê Phán</span> [Critical Art Ensemble],<span style="font-style:italic;"> Liên mạng Truyền hình Ăngten Lòng chảo</span> [Deep Dish Television Network] <span style="font-style:italic;">Mark di Suverno và Rikrit Tiravanija</span>, <span style="font-style:italic;">DTAOT </span>(Don’t Trust Anyone Over Thirty All Over Again| Đừng tin kẻ nào quá tam thập thêm bất cứ một lần nào nữa) kết hợp với <span style="font-style:italic;">Dan Graham, Tony Ousler, Rodney Graham, Laurent P Berger và Japanther</span>, <span style="font-style:italic;">Natalie Jeremijemko/ Văn phòng Công nghệ Nghịch đảo</span> [Bureau of Inverse Technology], <span style="font-style:italic;">T Kelly Mason và Diana Thater, Otabenga Jones và Hiệp hội, Reena Spaulings và Câu lạc bộ xưởng phim </span>[Studio Film Club].<br /><br />[3] Biennial Berlin dành cho nghệ thuật đương đại lần thứ 4 (từ 25 tháng Ba – đến 28 tháng Sáu) có tiêu đề <span style="font-style:italic;">“Của Chuột và Người”</span> [tên một tác phẩm nổi tiếng của văn hào Mỹ được giải Nobel văn chương năm 1962 John Steinbeck – ND] do The Wrong Gallery giám tuyển.<span style="font-style:italic;"> “Trạm không tưởng”</span> do Molly Nesbit, Hans Ulbrich Orbist và Rikrit Tiravanija giám tuyển tại khu Arsenale vào Venice Biennale lần thứ 50 (Từ 15 tháng Sáu đến mùng 2 tháng Mười Một).<br /><br />[4]Michel Foucault,<span style="font-style:italic;"> “Một tác giả là gì?”,</span> trong Ngôn ngữ, Phản-ký ức, Thực hành [Language, Counter-Memory, Practice], Donald F. Bouchard và Sherry Simon dịch, Donald F. Bouchard hiệu đính (Ithaca, NY 1977), tr. 124-7<br /><br />[5] Michael Hardt và Antonio Negri,<span style="font-style:italic;"> Đế quốc</span> [Empire] (London and Cambridge, MA 2000)<br /><br />[6] Michel de Certeau (1925-86) tổng hợp tâm phân học, triết học và khoa học xã hội trong tác phẩm <span style="font-style:italic;">The Practice of Everyday Life </span>( bản tiếng Anh 1984), ở đó, ông phát triển một lý thuyết về hành vi tiêu thụ có tính năng sản có sẵn trong đời sống thường nhật, phân biệt với các thực hành của sự hiện sinh thường nhật khác bởi hành vi này có tính lặp lại và vô thức.<br /><br />[7] Được viết bởi John Steinbeck (1902-1968), <span style="font-style:italic;">Của Chuột và Người </span>(1937) là một tiểu thuyết về hai gã chăn gia súc lang thang tìm cách kiếm đủ tiền để mau một nông trại; chủ đề của tiểu thiếu bao gồm nạn phân biệt chủng tộc, sự cô đơn, sự thành kiến với người thần kinh và nỗ lực độc lập của cá nhân.Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-28942324750725698262012-01-24T19:37:00.000-08:002012-01-30T21:33:01.700-08:00(chuyên đề giám tuyển) 10 GIÁM TUYỂN, 100 NGHỆ SĨ ĐƯƠNG ĐẠI, 10 NGHỆ SĨ NGUỒN (KỲ1)<span style="font-weight:bold;">Lời người dịch </span><br /><br /><span style="font-style:italic;">Bài dịch dưới đây được dịch từ cuốn <span style="font-weight:bold;">Kem lạnh: 10 giám tuyển, 100 nghệ sĩ đương đại, 10 nghệ sĩ nguồn [Ice Crem, 10 curator, 100 contemporary artists, 10 source artist] </span>do Nhà xuất bản Phaidon xuất bản năm 2008. Bài dịch này là cuộc trao đổi giữa 10 giám tuyển trong số các giám tuyển quan trọng nhất hiện nay trên thế giới, về các chủ đề như vai trò và nhiệm vụ của giám tuyển, áp lực thị trường, cuộc đối đầu giữa định chế và các khu vực ngoại biên, cũng như về chính các thay đổi trong thực hành giám tuyển thế giới. Trong vai trò là một nghệ sĩ và giám tuyển độc lập, tôi hy vọng cuộc trao đổi này sẽ giúp cung cấp cho bạn đọc, nhất là các bạn đọc là công chúng tại Việt Nam, một “lát cắt” thông tin, dẫu không hoàn toàn đầy đủ, song cũng khá bao quát về, các vấn đề của thực hành giám tuyển, của nghệ thuật nói chung trên thế giới hiện nay.</span><br /><br />Như Huy<br /><br />---------<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Tiểu sử các giám tuyển tham gia vào cuộc thảo luận</span><br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Sergio Edelstein</span> </span><br /><br />Sáng lập Trung tâm Nghệ thuật Đương đại Tel Aviv năm 1995, ở đó, từ năm 1997, ông đã giám tuyển 5 biennial về nghệ thuật trình diễn và 2 biennial quốc tế về nghệ thuật video, có tên là<span style="font-style:italic;"> “Video Zone”</span>. Năm 1987, ông sáng lập <span style="font-style:italic;">Artifact Gallery</span>, Tel Aviv, nơi ông nhận lãnh vai trò giám đốc cho tới năm 1995. Từ năm 1995, ông đã giám tuyển vô số triển lãm video, các triển lãm hồi cố, các sự kiện trình diễn và các biennial, bao gồm Khu vực dành cho Israel tại<span style="font-style:italic;"> Venice Biennale (2005)</span>. Edelstein đã giảng dạy, dàn dựng các chương trình chiếu video và xuất bản trước tác ở nhiều quốc gia vòng quanh thế giới, trong đó bao gồm Israel, Tây Ban Nha, Brazil, Ý, Áo, Đức, Mỹ và Argentina.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Jens Hoffmann</span> </span><br /><br />là một giám tuyển và cây viết về nghệ thuật có xuất xứ từ San Francisco, là nơi ông giữ chức giám đốc <span style="font-style:italic;">CCA Wattis Institute</span>. Ông là giám đốc triển lãm tại <span style="font-style:italic;">Viện Nghệ thuật Đương đại London</span> và là thành viên bộ môn của chương trình nghiên cứu giám tuyển tại <span style="font-style:italic;">Trường Goldsmith</span>, Đại học London cho tới cuối năm 2006. Từ năm 1998, ông đã giám tuyển rất nhiều triển lãm quốc tế cũng như viết hàng trăm bài viết về nghệ thuât thị giác và thực hành giám tuyển cho các ấn phẩm bảo tàng xuất bản và các tạp chí nghệ thuật. Ông đã tổ chức vô số triển lãm nhóm, trong đó bao gồm <span style="font-style:italic;">“Những sự chọn lựa ưa thích của nghệ sĩ”</span>, phần 1 và phần 2 (2004), <span style="font-style:italic;">“100 artistss See God”</span> [“100 nghệ sĩ thấy Chúa”] (2004-5) và <span style="font-style:italic;">“Tino Sehgal”</span> (2005, 2006 và 2007).<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Lisette Lagnado </span></span><br /><br />Là trưởng ban giám tuyển của <span style="font-style:italic;">Biennial São Paolo </span>lần thứ 27 (2006) và tham gia làm việc cho triển lãm <span style="font-style:italic;">Documenta</span> lần thứ 12 (2007), năm 1993, bà sáng lập <span style="font-style:italic;">Projecto Leonilson</span> và xuất bản <span style="font-style:italic;">Leonilson, São tantas as verdades</span>. Bà đã là đồng giám tuyển triển lãm <span style="font-style:italic;">“Antartica Artes com a Folha”</span> (1996), một triển lãm lập đồ bản cho nghệ thuật của Brazil, và là giám tuyển triển lãm <span style="font-style:italic;">“Special Hall”</span> [Phòng trưng bày đặc biệt] tôn vinh Iberê Camargo tại <span style="font-style:italic;">Biennial do Mercosul</span> lần thứ 2 (1999), cũng như là đồng điều hành website <span style="font-style:italic;">Programa Hélio Oiticica</span>. Từ 2001, bà là biên tập viên của tạp chí <span style="font-style:italic;">online Trópico</span>. Bà có bằng tiến sĩ triết học của Đại học São Paolo.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Midori Matsui </span></span><br /><br />là một phê bình gia nghệ thuật và học giả từng viết rất nhiều về văn hóa nghệ thuật của Nhật Bản và phương Tây cho nhiều tạp chí định kỳ và catalogue khác nhau, bao gồm <span style="font-style:italic;">Little Boy; The Arts of Japan’s Exploding Subculture</span> [Cậu nhóc: Nghệ thuật về trào lưu văn hóa bên lề đang bùng nổ của Nhật Bản] (2005), <span style="font-style:italic;">Japan Society</span>, New York [Hiệp hội Nhật bản New York]; <span style="font-style:italic;">Public Offering</span> [Sự đề nghị công khai] (2001), <span style="font-style:italic;">Musem of Contemporary Art</span> [Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại] và<span style="font-style:italic;"> Geffen Contemporary</span>, Los Angeles; <span style="font-style:italic;">Painting at the Edge of the World</span> [Hội họa ở nơi tận cùng thế giới] (2001) Walker Arts Center [Trung tâm nghệ thuật Walker], Mineapolis;<span style="font-style:italic;">Takashi Murakami: The Nonsense of the Meaning of the Nonsense</span> [Takashi Murakami; Sự bất tri nơi nghĩa của sự bất tri] (2000), do Harry N Abrams xuất bản và <span style="font-style:italic;">Art in a New World; Post-Modern Art in Perspective</span> (2000) [Nghệ thuật trong một thế giới mới; Nghệ thuật hậu hiện đại nhìn trong phối cảnh], do Asahi Press xuất bản. Matsui hiện đang giảng dạy về nghệ thuật hậu hiện đại và lý thuyết tại đại học nghệ thuật Tama, Yokohama. Bà là giám tuyển của triển lãm <span style="font-style:italic;">“The Door into Summer: The Age of Micropop”</span> [Cánh cửa vào mùa hạ; kỷ nguyên của pop –vi mô] (2007, tại Art Tower Mito [Tháp nghệ thuật Mito], Nhật Bản.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Shamim M. Momin</span> </span><br /><br />là giám tuyển cộng tác tại Bảo tàng Whitney về nghệ thuật Mỹ, giám đốc chi nhánh và giám tuyển của Bảo tàng Whitney tại Altria, New York. Ngoài công việc đồng giám tuyển cho Whitney Biennial (2004), bà còn coi sóc <span style="font-style:italic;">“Loạt triển lãm đương đại”</span> [The Contemporary Series] và mới đây đã tổ chức các triển lãm cá nhân <span style="font-style:italic;">“Banks Violette” </span>(2005), <span style="font-style:italic;">“Raymond Pettibon” </span>(2005-6) và <span style="font-style:italic;">“Mark Grotjahn”</span> (2006-7) cho dự án này. Bà là tác giả cho các catalogue của những cuộc triển lãm tại Whitney cũng như thường xuyên viết cho các ấn phẩm nghệ thuật khác. Bà tham gia vào rất nhiều hội đồng và các cuộc thảo luận bàn tròn và thường là giám tuyển và phê bình gia nghệ thuật khách mời tại các trường nghệ thuật, các chương trình thường trú nghệ thuật và các đại học. Mới đây nhất, bà là giáo sư thỉnh giảng cho chương trình thạc sĩ cao cấp của Đại học New York.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Pili </span></span><br /><br />là giảng viên tại học viện mỹ thuật trung tâm và giám tuyển tại không gian phương tiện mới Loft, Bắc Kinh. Ông đồng điều hành <span style="font-style:italic;">“Between Past and Future; New Photography and Video from China</span> [Giữa quá khứ và tương lai; nhiếp ảnh và Video mới từ Trung Hoa], một triển lãm được thực hiện liên kết với Freewaves, được đồng giám tuyển bởi Wu Hung và Christopher Phillips. Ông còn là giám tuyển cho triển lãm lưu động <span style="font-style:italic;">“Under Constructuon”</span> [Phía dưới cấu trúc], tức một triển lãm đi vòng quanh các quốc gia châu Á từ 2001 đến 2003, là trợ lý giám tuyển cho khu vực Trung Hoa tại Biennial São paolo lần thứ 25 92002), là giám tuyển cho Biennale Thượng Hải (2002) và cho triển lãm <span style="font-style:italic;">“Allors la Chine” </span>(2003), tại trung tâm nghệ thuật Pompidu, Paris. Vào năm 2005, Pili và Waling Boers, từ Gallery Büro Friederich tại Berlin, sáng lập <span style="font-style:italic;">Gallery xưởng làm việc quốc tế độc lập</span> [Independent Universal Studo Gallery] tại Bắc Kinh. Ông cũng là giám tuyển cho một khu vực trong triển lãm <span style="font-style:italic;">China Power Station</span>; phần 1, là dự án của gallery Serpentine tại Battersea Power Station, London.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Gloria Sutton </span></span><br /><br />từng là thành viên thuộc <span style="font-style:italic;">Quỹ Helena Rubinstein</span> về nghiên cứu phê phán tại chương trình nghiên cứu độc lập thuộc Bảo tàng Whitney về Nghệ thuật Mỹ và hiện đang hoàn tất bằng tiến sĩ lịch sử nghệ thuật tại Đại học California, Los Angeles, cũng là nơi bà viết một luận án về Thực hành điện ảnh mở rộng của thập kỷ 60. Bà là thành viên sáng lập và hiện thuộc ban giám đốc của <span style="font-style:italic;">Rhizome.org</span>. Trong vai trò người nhận học bổng giám tuyển Ahmanson tại bảo tàng nghệ thuật đương đại Los Angeles, bà đã giám tuyển triển lãm <span style="font-style:italic;">“MOCA Focus: Karl Haendel”</span> và là trợ lý giám tuyển của triển lãm <span style="font-style:italic;">“Ecstasy: In and About Altered States” </span>[Mê ngất: Trong và về các biến trạng]. Mới đây bà đã xuất bản cuốn sách <span style="font-style:italic;">Future Cinema: The Cinematic Imaginary After Film</span> [Tương lai của điện ảnh: Sự tưởng tượng thuần túy điện ảnh thời hậu làm phim], do MIT Press xuất bản.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Olesya Turkina </span></span><br /><br />là một phê bình gia nghệ thuật và giám tuyển. Các dự án trước đây của bà bao gồm Khu vực nước Nga tại Vinice Biennale lần thứ 48 (1999) và bà cũng là đồng giám tuyển của triển lãm <span style="font-style:italic;">“Kabinet”</span>, Stedelijk Museum, Amsterdam. Olesya Turkina là thành viên nghiên cứu cao cấp tại ngành nghệ thuật đương đại thuộc Bảo tàng Quốc gia Nga, St. Petersburg. Bà từng viết cho các tạp chí như <span style="font-style:italic;">Flash Art</span> và <span style="font-style:italic;">Moscow Art Magazines</span>, và là một biên tập viên của tạp chí nghệ thuật online <span style="font-style:italic;">Contemporary Russian Art Newsletter</span> [Tin tức về nghệ thuật đương đại Nga]. Cùng với việc là thành viên <span style="font-style:italic;">Liên đoàn Không gian Nga</span> [Russian Space Federation], là nơi mà bà cống hiến rất nhiều sức lực, trong khoảng vài năm nay, bà cũng làm việc cho một loạt triển lãm về điện ảnh có tên <span style="font-style:italic;">“The Chain of Flowers”</span> [Chuỗi hoa] cộng tác với <span style="font-style:italic;">Bảo tàng Công nghệ kỷ Jura</span> [Museum of Jurrassic Technology], Los Angeles.<br /><br /><span style="font-style:italic;"><span style="font-weight:bold;">Philippe Vergne </span></span><br /><br />là trưởng ban giám tuyển và phó giám đốc <span style="font-style:italic;">Trung tâm Nghệ thuật Walker</span> [Walker Art Center], Mineapolis. Ông là đồng giám tuyển <span style="font-style:italic;">Whitney Biennial (2006)</span> với Chrissie Lies và là giám đốc <span style="font-style:italic;">Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Marseille</span> từ 1994 tới 1997. Ông là giám tuyển triển lãm lưu động và hồi cố đầu tiên của nghệ sĩ Trung Hoa Huang Yong Ping (2005). Ông cũng đã giám tuyển vô số các triển lãm dạng chuyên khảo khác trong thời kỳ làm việc tại <span style="font-style:italic;">Trung tâm Nghệ thuật Walker</span>, bao gồm <span style="font-style:italic;">“Cameron Jamie” </span>(2006), và <span style="font-style:italic;">“Kara Walker” </span>(2007). Ông từng viết cho rất nhiều tạp chí định kỳ như<span style="font-style:italic;"> Artforum</span>, <span style="font-style:italic;">Parkett</span> và <span style="font-style:italic;">Asia Pacific Magazine</span>.<br /><br /><span style="font-style:italic;">T<span style="font-weight:bold;">he Wrong Gallery</span><br /></span><br /><br />Vào năm 2002, Nhóm của nghệ sĩ Maurizio Cattelan, giám tuyển Massimiliano Gioni, biên tập viên và giám tuyển Ali Subotnick đã thành lập <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span>, là một không gian triển lãm rất nhỏ theo hình một cửa ra vào rộng một mét vuông tại Chelsea, quận nghệ thuật của New York. <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery </span>bị trục xuất khỏi không gian đó vào mùa Xuân năm 2005, và được đưa lại vào khu gallery của các bộ sưu tập thuộc bảo tàng tại <span style="font-style:italic;">Bảo tàng Nghệ thuật Tate Modern</span>, London. <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span> cổ vũ cho các các cuộc can thiệp bí mật cỡ nhỏ vào không gian công cộng và xuất bản <span style="font-style:italic;">The Wrong Times</span>, một tờ nhật báo đăng phỏng vấn của các nghệ sĩ từng triển lãm tại <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span>. Cattelan, Gioni và Subotnick gần đây đã trình bày triển lãm <span style="font-style:italic;">“Thất vọng vì luật pháp”</span>, một triển lãm trong vòng một ngày đêm tại<span style="font-style:italic;"> Whitney Biennale (2006)</span>. Nhóm giám tuyển ba người này đã giám tuyển <span style="font-style:italic;">biennial Berlin cho nghệ thuật đương đại</span> lần thứ 4, có tên là <span style="font-style:italic;">“Của Chuột và Người” (2006).</span><br />________________<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Lời giới thiệu:</span> Theo bước đi của <span style="font-style:italic;">Kem</span> [Cream] (1998), <span style="font-style:italic;">Kem tươi</span> [Fresh Cream] ( 2000) và <span style="font-style:italic;">Kem 3</span> [Cream 3] (2003), <span style="font-style:italic;">Kem lạnh: Nghệ thuật đương đại trong văn hóa</span> [Ice Cream: Contemporary Art in Culture] là một cuộc khảo sát toàn cầu về một số các nghệ sĩ đang-lên quan trọng nhất ngày nay. Với tập hợp của 100 nghệ sĩ được một nhóm 10 giám tuyển nổi tiếng thế giới tuyển lựa, cuộc triển lãm-trong-sách này sắm vai trò như một bản chỉ dẫn về các xu hướng nghệ thuật trong tương lai.<br /><br />10 giám tuyển quan trọng được Phaidon lựa chọn dựa vào tri thức, viễn kiến sắc sảo và quan điểm có tính phê phán của họ. Trước hết, mỗi giám tuyển sẽ đề cử 10 nghệ sĩ mà họ cảm thấy là đại diện tốt nhất cho lớp “váng kem” của nghệ thuật đương đại hiện tại. Sau đó, họ sẽ làm việc với các nghệ sĩ ấy để lựa chọn ra các tác phẩm tốt nhất và có tính tiêu biểu nhất của từng nghệ sĩ để đưa vào cuốn sách này. So với cả loạt sách, cuốn sách này có một sự phá cách mới mẻ khi nó đưa The Wrong Gallery vào vai trò một trong 10 giám tuyển. Khác với 9 giám tuyển còn lại, nhóm giám tuyển từ The Wrong Gallery chỉ lựa chọn các nghệ sĩ trên 60 tuổi mà gần đây tái xuất hiện trong ý thức của thế giới nghệ thuật đương đại. Sự giao cắt giữa các thế hệ này không thường thấy trong các cuốn sách tập trung vào các nghệ sĩ chưa nổi tiếng và nó sẽ đưa lại một độ sâu cũng như hương vị đặc biệt cho Kem lạnh.<br /><br />Cùng lúc ấy, <span style="font-style:italic;">Kem lạnh</span> cũng đề nghị một cái nhìn toàn cảnh vào khung cảnh đương đại toàn cầu hóa với tốc độ dần tăng. Hơn bao giờ hết, để hiểu được các phát triển cận thời nhất trong nghệ thuật, khả năng quan sát vượt khỏi các biên giới địa lý là vô cùng quan trọng, và các giám tuyển của <span style="font-style:italic;">Kem lạnh</span> đã sử dụng hiểu biết của họ về các khung cảnh thường nhật – ở đây bao gồm hơn hai tá quốc gia vòng quanh địa cầu – để tìm ra các nghệ sĩ đang-lên quan trọng nhất ngày nay, mà không đặt nặng vấn đề các nghệ sĩ đó chọn nơi đâu để thực hiện tác phẩm.<br /><br />Giống với <span style="font-style:italic;">Kem 3</span>, các giám tuyển cũng tuyển lựa thêm 10 nghệ sĩ nguồn [source artist] từ thế hệ trước, tức những người tạo ra ảnh hưởng và là nguồn cảm hứng cho cả họ lẫn các nghệ sĩ mà họ tuyển lựa vào đây. Sự thêm vào của các cái tên danh tiếng này sẽ cung cấp cho người đọc cơ hội phản tư vào tác phẩm của các nghệ sĩ đang-lên từ một điểm nhìn thuận lợi.<br /><br />Các sáng tạo khác trong cuốn sách này bao gồm những cách ứng phó dũng cảm trước thách thức của việc miêu tả các tác phẩm mà tự bản chất là có tính nhất thời và phù du. Ví dụ, Tino Sehgal là một nghệ sĩ lựa chọn cách không bao giờ chụp lại tác phẩm của mình, mà thích để mọi người trải nghiệm trực tiếp, hoặc chí ít, được nghe kể lại về chúng từ những người đã trải nghiệm trực tiếp. Để đưa được nghệ sĩ này vào cuốn sách, giám tuyển Jens Hoffmann đã phải tìm cách tạo ra các “văn bản/hình ảnh” miêu tả về các màn trình diễn của ông.<br /><br />Lẽ cố nhiên, người ta không thể mô phỏng được sự trải nghiệm nghệ thuật của mỗi cá nhân và không gì thay thế được việc xem nghệ thuật ngay trong văn cảnh thông thường của nó. Tuy nhiên, qua việc kết hợp nghệ thuật với các thông tin được thu thập qua hàng năm trời nghiên cứu khắp hoàn cầu, hy vọng <span style="font-style:italic;">Kem lạnh</span> sẽ cung cấp được một nguồn vốn phong nhiêu và súc tích để bạn đọc có thể nghiền ngẫm.<br /><br /><br />________________<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/-DaIzuk-fWVE/Tx97dYUEGSI/AAAAAAAABgM/j3FyLtL96_o/s1600/Cattelan-front%2Bview.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 240px; height: 320px;" src="http://3.bp.blogspot.com/-DaIzuk-fWVE/Tx97dYUEGSI/AAAAAAAABgM/j3FyLtL96_o/s320/Cattelan-front%2Bview.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5701411397947365666" /></a><br />The Wrong gallery<br /><br /><span style="font-style:italic;">Vai trò truyền thống, lựa chọn các nghệ sĩ, đã hết là giới hạn cho những gì cấu tạo nên công việc của giám tuyển. Triển lãm <span style="font-style:italic;">Whitney Biennial (2006)</span>[1], New York, và triển lãm <span style="font-style:italic;">“Artists’s Favourites” </span>[Lựa chọn ưa thích của các nghệ sĩ] (2004) tại <span style="font-style:italic;">Học viện Nghệ thuật Đương đại London</span> là hai triển lãm mà ở đó các nghệ sĩ được yêu cầu sắm vai trò người tuyển lựa. Cái định nghĩa về “một giám tuyển là gì?” đã thay đổi ra sao? Các giám tuyển có vai trò quan trọng thế nào đến sự phát triển của nghệ thuật đương đại? Mối quan hệ với các nghệ sĩ được các ngài thiết lập ra sao và rồi chúng có ảnh hưởng đến đâu tới thực hành giám tuyển của các ngài, cũng như tới đường hướng của nghệ thuật đương đại?</span><br /><br /><span style="font-weight:bold;">Massimilliano Gioni, The Wrong Gallery</span><br /><br />Vào thời điểm tôi bắt đầu có hứng thú với nghệ thuật đương đại, danh từ “giám tuyển” chưa quá thời thượng. Thật sự là tôi chưa bao giờ cho là mình hiểu ý nghĩa của nó. Ở nước Ý, vào cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, dường như ai cũng muốn trở thành phê bình gia nghệ thuật; không một ai hiểu thế nào là giám tuyển, và nếu là giám tuyển thì sẽ làm gì. Cái kiểu lơ mơ này đâm ra lại có tính năng sản, bởi vai trò càng ít bị định nghĩa thì hệ thống càng có tính loãng động, và khả thể càng mở ngỏ. Mối băn khoăn xung quanh các nhà giám tuyển là một hiện tượng của thập kỷ 90, và nó tương ứng với thế giới nghệ thuật đang trở nên ngày càng sáp hợp vào với ngành công nghiệp văn hóa, và bởi vậy ngày càng gắn với các vai trò và chức năng cụ thể. Nơi hệ thống nghệ thuật ít được cấu trúc chặt chẽ, nghệ sĩ có thể điều hành các không gian phi lợi nhuận và tổ chức các triển lãm, biên tập các tạp chí, hay chơi chung với nhau mà không cần coi mình là giám tuyển, hay cây viết nghệ thuật, hoặc gì khác. Ta chỉ cần dạo qua phần ngoại vi của các trung tâm danh giá ở Tây Âu và Mỹ là có thể chứng kiến cái tình huống vẫn loãng động, mở ngỏ và thường xuyên có tính sáng tạo hơn này. Nếu ta nhớ về những kẻ xúi giục và đồng hội đồng thuyền vĩ đại của các nghệ sĩ hồi đầu thế kỷ 20 – như Tristan Tzara hay André Bréton chẳng hạn – liệu ta cũng sẽ gọi họ là giám tuyển, phê bình gia, hay đơn giản chỉ thấy họ là bạn bè của nghệ sĩ, tức những người cống hiến thời gian và năng lượng của mình để giúp tạo năng lượng cho người khác? Khi được diễn giải bằng các thuật ngữ giản dị nhất, những con người này có thể là một mô hình thú vị về giám tuyển. Như vậy, một giám tuyển không phải là một nhân vật tuyển lựa nghệ sĩ, mà là một kẻ đồng hội đồng thuyền với nghệ sĩ, một chất xúc tác và một loa phóng thanh cho giọng điệu của nghệ sĩ.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://1.bp.blogspot.com/-ph62pPU_Q_U/Tx97DDhvZmI/AAAAAAAABgA/xPzozh9yskw/s1600/tumblr_kt05y1gQoJ1qztk1wo1_500.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 242px;" src="http://1.bp.blogspot.com/-ph62pPU_Q_U/Tx97DDhvZmI/AAAAAAAABgA/xPzozh9yskw/s320/tumblr_kt05y1gQoJ1qztk1wo1_500.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5701410945690986082" /></a><br /><span style="font-style:italic;">Andre Breton</span><br /><br />Còn về việc thiết lập mối quan hệ với nghệ sĩ thì lại chả có nguyên tắc nào cả. Tôi cho là việc <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery </span>được đưa vào cuốn sách này có liên quan tới sự nhòa lẫn các vai trò, tức điều bỗng dưng trở nên còn hơn cả thời thượng[2]. <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span>, hay bất cứ sự hợp tác nào với Maurizio Cattelan và Ali Subotnik, đều liên quan tới việc cộng tác chặt chẽ cùng các nghệ sĩ, tạo ra các khuôn khổ và không gian cho màn diễn của họ và để họ làm bất kỳ điều gì họ muốn. Ở trạng thái lý tưởng nhất, các giám tuyển cần làm thế nào đó để có thể trở nên vô hình; họ nên có mặt, đáng tin cậy, rồi lui lại, và biến mất. Tuy nhiên sẽ rất khó để tìm thấy sự quân bằng giữa sự xuất hiện, chủ động, dấn thân triệt để và sự phục vụ mẫn cán cho ý tưởng và viễn kiến của người khác. Ta nên luôn tự nhắc nhở rằng vai trò truyền thống của giám tuyển không nên là vai trò của việc tuyển lựa nghệ sĩ; đây là một kiểu định nghĩa có tính xúc phạm. Vấn đề ở đây không phải là việc lựa chọn hay khám phá. Chúng tôi không phải là các nhà thám hiểm lãng mạn, tức những kẻ khám phá ra một giống người gần như tiền sử gọi là “nghệ sĩ”. Các giám tuyển, theo nghĩa đen, được cho là người “quan tâm/lo liệu/bảo trọng” [take care] cho các nghệ phẩm và nghệ sĩ; đây chính là thành quả đơn giản nhất, song cũng khó khăn nhất cho bất kỳ ai làm việc trong lãnh vực nghệ thuật.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Sergio Edelsztein<br /></span><br />Có lẽ chúng ta nên vạch một ranh giới giữa các giám tuyển “xuất hiện nổi bật” và các giám tuyển “ít được biết đến”. Nhóm đầu tiên là những giám tuyển tham dự thường trực hết siêu triển lãm này đến siêu triển lãm khác, tạo ra vai diễn đinh và gây ảnh hưởng cho thị trường nghệ thuật. Chính những kẻ này mới là “các nhà thám hiểm lãng mạn”. Họ du lịch khắp thế giới, săn tìm các nghệ sĩ mới mẻ về làm món ăn cho thế giới phương Tây (ví dụ: Triển lãm tác phẩm của các nghệ sĩ Trung Quốc và châu Phi). Các giám tuyển “ít được biết đến” là những người mà Massimiliano Gioni định nghĩa là làm việc tại “những nơi mà hệ thống nghệ thuật ít được cấu trúc chặt chẽ”. Đó là nơi mà các cấu trúc thị trường và định chế không rõ ràng, do đó, thời gian và năng lượng của nghệ sĩ được dành cho các hành vi bên ngoài studio, cho các cuộc thảo luận, và cho sự tương tác với các nghệ sĩ khác, đến mức tạo ra đủ nhiệt lượng để phát triển thành ra một thực hành giám tuyển. Đây chính là một đặc quyền của các phần ngoại biên. Tuy nhiên, khi nói điều này, tôi không có ý hàm chỉ về một chốn-không có tính địa lý, mà là về các nhóm ngoại biên, tách khỏi thị trường định chế thuộc dòng chính lưu.<br /><br />Sự trộn lẫn và trao đổi vai trò luôn không chỉ là một đặc quyền, mà còn là một điều kiện cho các vận động tiền phong. Đây chính là nơi mà Tzara và Bréton xuất hiện. Việc không có một hệ thống ủng hộ bên ngoài nhóm đang hoạt động cũng là một điều kiện cho sự xuất hiện ấy Chúng ta, các giám tuyển chuyên nghiệp và bận rộn hiếm khi tập trung vào một nhóm, một ý tưởng hay lý thuyết cụ thể, để rồi dần dà tạo được ảnh hưởng lớn trong sự phát triển của nhóm, ý tưởng hay lý thuyết ấy. Có thực sự là chúng ta có “thời gian và năng lượng để giúp tạo năng lượng cho người khác” như ao ước của Massimilliano Gioni, khi chúng ta luôn phải đi lại như con thoi giữa các dự án, triển lãm và định chế – chưa kể tới việc gây quỹ và các công việc hành chính khác?<br /><br />Tôi đồng ý rằng đây là một tình huống lý tưởng; Tôi hiểu cảm xúc về một sự đồng vận lớn dần khi làm việc cùng một nghệ sĩ, và điều này thật tuyệt vời! Song tôi cũng rất biết sự giận dữ của việc không đủ tự do, thời gian hay năng lượng để trở nên một “kẻ đồng hội đồng thuyền… một chất xúc tác và một loa phóng thanh cho giọng điệu của nghệ sĩ”.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Olesya Turkina</span><br /><br />Từ sau thập kỷ 70 cho tới thời “Cải tổ” tại Liên Xô, “giám tuyển” là tên đặt cho nhân viên KGB được chỉ định theo dõi các nghệ sĩ và trào lưu ngoài luồng. Quyền lực áp bức này được ngụy trang bằng tình yêu thương theo kiểu phụ huynh, hàm ngụ qua chính từ nguyên của từ giám tuyển, bởi công việc của một giám tuyển [curator], theo nghĩa đen, là “cure” (hay care) [giám hộ/ điều trị/ bảo quản/chăm nom]. Felix Guattarri gọi nghệ sĩ là các bệnh nhân và bác sĩ của thời đại chúng ta, song, có lẽ ở đây vai trò bác sĩ nên được dành cho giám tuyển. Và nếu vậy, việc là một “giám tuyển nổi danh” cũng đồng nghĩa với việc trở nên một nhà tâm phân học lắng nghe nghệ sĩ nói, hồi nhớ, biểu lộ, chuyển hóa. Một giám tuyển nên làm gì trong tình thế này? Liệu có phải là nên lắng nghe và phân tích nhờ vào một hình thức cụ thể – hình thức của triển lãm?<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Sergio Edelsztein</span><br /><br />Tôi thích ý nghĩa kiểu Xô-viết gán cho từ “giám tuyển”. Thật tình cờ là trong tiếng Tây Ban Nha, đặc biệt là tại Tây Ban Nha – họ cũng thường sử dụng tử “comisaro” hơn là từ “curador” cho những người làm công việc giám tuyển. Comisaro cũng có nghĩa là cảnh sát trưởng – một dạng “sherrif” [tiếng Anh: cảnh sát trưởng địa phương]. Liệu cách dụng từ này có tương đương gì với cách KGB hiểu về “giám tuyển?”<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Shamim M Momin</span><br /><br />Thật thú vị làm sao. Trước đây tôi chưa bao giờ nghĩ về những dị bản từ nguyên mà chữ “giám tuyển” có thể gợi ra trong các ngôn ngữ khác. Tôi luôn hiểu nó như một chữ phái sinh từ tiếng Latin, mà tôi tin là Massimiliano Gioni đã tham chiếu khi ông phân tích về khía cạnh “care of” của nó. Tôi đã nghĩ rất nhiều về vai trò giám tuyển, và thấy rằng hiện nay có biết bao nhiêu là kiểu giám tuyển khác nhau. Điều gì là yếu tố chung nhất cho họ? Là cái giản đồ ven, nơi các khu vực chung từ các vòng tròn khác biệt chồng khít với nhau? Dường như với tôi, điểm mấu chốt có tính cơ sở cho một giám tuyển đương đại chính là một mệnh đề kép. Chúng ta “take care of” nghệ sĩ – không phải theo cảm thức “take care of” một kẻ mắc “hội chứng bác học khờ” [idiot-savant] có tính tiểu thuyết hóa, là điều sẽ xúc phạm ghê gớm toàn bộ mọi thành phần liên quan, mà hơn thế, theo cảm thức của sự tạo điều kiện làm việc thuận tiện và tạo đối thoại/cơ hội. Chúng ta là một dạng hoa tiêu vĩnh cửu giữa nghệ sĩ và công chúng. Giám tuyển có lẽ là một kiểu dây cáp dẫn điện mà dẫu có sở hữu hình dạng thế nào đi nữa thì cũng đều cần thiết. Như Sergio Edelsztein đã chỉ ra, một giám tuyển làm việc trong định chế sở hữu một tập hợp các công việc mà một giám tuyển độc lập không có, và ngược lại – tuy nhiên, tất cả mọi giám tuyển đều phải được đánh giá trên một thang đối chiếu về sự tự do, tính tháo vát, khả năng hỗ trợ, tầm ảnh hưởng, sự nghiêm khắc về chất lượng, sức truyền cảm, sự thông sáng, v.v… Một yêu cầu cho công việc giám tuyển mà hầu hết các đồng nghiệp của tôi đều đồng thuận; đó là trách nhiệm và đặc quyền đồng thời của việc tạo ra sự kiện cho các nghệ sĩ và tác phẩm mà ta dồn tâm lực để xiển dương – hay, mượn thuật ngữ gợi gọi hơn, -để “khuếch đại” [amplyfing] – theo cả hai hướng; cho nghệ sĩ, cũng như cho những người xem và trải nghiệm tác phẩm.<br /><br />Vào một ngày đẹp trời, tôi có cảm giác rằng lãnh địa đương đại hình như đang bớt dần tính cấu trúc – có nghĩa là, hiện nay, ở đó, quan điểm tuyển lựa và trưng bày có tính phân cấp đã không còn bị định nghĩa rạch ròi, và do đó, thích hợp hơn với ý tưởng có tính phê phán nói trên về sự tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho nghệ sĩ. Ý nghĩ của tôi được khuyến khích bởi những bước tiến nhỏ bé đang diễn ra, như là việc nghệ sĩ được các giám tuyển mời để giám tuyển triển lãm, và cũng bởi các chuyển biến ít rõ ràng hơn trong các lề thói nơi mối quan hệ giữa giám tuyển và nghệ sĩ. Có lẽ, đây là một cách đọc đặt cơ sở từ kinh nghiệm tại nước Mỹ, nơi chúng tôi có vẻ đang quẩn quanh trong một cấu trúc quyền lực tư bản rành mạch hơn nhắm tới một sự trao đổi và loãng động có tính tương hỗ- trái ngược với mô hình châu Âu chịu ảnh hưởng từ các mô hình trong lịch sử.<br /><br /><span style="font-weight:bold;">Gloria Sutton</span><br /><br />Thật thú vị khi lưu ý về các tính từ dùng để miêu tả vai trò giám tuyển. Các định tính “cao” và “thấp” [trong cách nói “xuất hiện nổi bật” (high-visibility) và “ít được biết tới” (low-visibility)], cũng như ý tưởng rằng các giám tuyển nên/có thể xuất hiện, song lại biến mất hoặc chìm vào hậu cảnh đã làm rõ vai trò giám tuyển như một vị trí không ổn định từ vô số cấp độ; từ cấp độ là một vị trí trong một tổ chức (quyền lực) có tính phân cấp, từ cấp độ chính sách, quan điểm, tư kiến, hay từ cấp độ hành động – tức dàn dựng các sự vật trong mối quan hệ của chúng với nhau. Tôi cũng chú ý tới việc làm thế nào mà tên của giám tuyển lại thường xuyên xuất hiện trước, hay ở một số trường hợp, xuất hiện đúng nơi lẽ ra phải niêm yết tên nghệ sĩ, và qua đó, mang chức năng của một sự chứng nhận, hay (có lẽ Pierre Bourdieu hẳn sẽ miêu tả là của) một hành vi thiêng hóa, hành vi ban giá trị cho điều gì đó vốn vô giá trị. <span style="font-style:italic;">Kem lạnh</span> là một ví dụ cho điều này. Nếu như các nghệ sĩ xuất hiện trong cuốn sách được giả định là khá vô danh hay “đang-lên”, vai trò giám tuyển trong văn cảnh này, theo nghĩa đen, đã trở nên một bộ lọc, tức hành vi đưa ra một phán đoán về giá trị trong khi cùng lúc ấy, ban bố giá trị.<br /><br /><br />--------<br /><br /><span style="font-style:italic;">[1] <span style="font-style:italic;">Whiney Biennial </span>[Biennial hay Biennale, đều là tên gọi cho dạng triển lãm hai năm một lần - ND] (từ mùng 2 tháng Ba đến 28 tháng Năm) có đưa vào triển lãm <span style="font-style:italic;">“Thất vọng vì luật pháp”</span> [Down by Law] do <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery </span>giám tuyển. Đây là một triển lãm nằm trong một triển lãm [nằm trong Whitney Biennale]. <span style="font-style:italic;">“Những sự lựa chọn ưa thích của nghệ sĩ” </span>[Artists’ Favourites] (phần 1: từ mùng 5 tháng Sáu đến 23 tháng Bảy; Phần 2: Từ 30 tháng Bảy đến mùng 5 tháng Chín 2004) đặt cơ sở trên tiền đề của việc nghệ sĩ tuyển lựa tác phẩm mà họ thấy thích nhất của các nghệ sĩ khác, tức những tác phẩm được thực hiện sau năm 1947, chính là năm thành lập của <span style="font-style:italic;">Học viện Nghệ thuật Đương đại London.</span><br /><br />[2] <span style="font-style:italic;">The Wrong Gallery</span> do nghệ sĩ Maurizio Cattealan, giám tuyển và phê bình gia nghệ thuật Massimiliano Gioni cùng cây viết nghệ thuật và giám tuyển Ali Subotnik thành lập; Gallery này không đại diện cho bất kỳ nghệ sĩ nào cũng như không mua bán các tác phẩm nghệ thuật. Xem them phần tiểu sử các giám tuyển, tr. 443.</span><br /><br /><span style="font-weight:bold;"><a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/01/chuyen-e-giam-tuyen-10-giam-tuyen-100_26.html">kì 2</a></span>, <span style="font-weight:bold;"><a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/01/chuyen-e-giam-tuyen-10-giam-tuyen-100_30.html">kì 3</a></span><br /><br />(Còn 3 kì)Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-72496091621244271452012-01-23T23:27:00.000-08:002012-01-23T23:30:52.616-08:00Chuyện hai hạt đậu (thơ ngụ ngôn của ông nội)Vốn cùng một quả tách ra<br />Đậu kia đôi hạt màu da xanh rờn<br />Tình thân gắn bó keo sơn<br />Cùng nong cùng mẹt trong cơn nắng hè<br />Cũng vì đất chở giời che<br />Há vì giúp ích mà e thân tàn<br />Bỗng người gây cảnh chia tan<br />Hạt đem ngâm nước hạt dàn phơi thêm<br />Thấm nhuần qua mấy ngày đêm<br />Hạt đem ngâm nước mọc thêm rễ dài<br />Nõn nà trắng toát trong ngoài <br />Mũ vàng đầu đội nên oai vô ngần<br />Cong cong mềm uốn tấm thân<br />Nghĩ mình danh giá có phần tự kiêu<br />Chê bai bạn đậu đủ điều<br />Các anh bộ dạng coi tiều tuỵ thay<br />Đầu đuôi cứng nhắc tròn xoay<br />Sao không bắt chước tôi đây đổi hình<br />Đậu nghe cười nhạt lặng thinh<br />Nghĩ điều nông nổi bạn mình ngán chưa<br />Vừa nên cái giá làm dưa<br />Vội chê cả mẹt đậu xưa bạn mình<br />Ngẫm xem thế thái nhân tình<br />Thuỷ chung trong lúc hiển vinh mấy người<br /><br /><br /><br /><span style="font-weight:bold;">Giải nhất cuộc thi thơ ngụ ngôn do hội Khai Trí Tiến Đức tổ chức năm 1942, do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm chủ khảo</span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-19598080630255747052012-01-21T08:16:00.000-08:002013-06-09T20:19:13.339-07:00bài hát Tiếng Cồng quân Y thời Tây Tiến, và một chuyện liên quan tới Hà Nội ( có kèm thêm phần tư liệu mới)<span style="font-style: italic;">Đây nguyên là một note tôi đã đăng trên facbook, nay có thêm tư liệu mới, nên tôi đăng lại ở blog- và có kèm thêm tư liệu mới đăng ở bên dưới note cũ. Tư liệu mới này tình cờ do gia đình mới gặp được một người trước làm binh vận thời chống Pháp, nắm rất rõ về các sự kiện thời đó, và nhờ ông viết lại, gửi email trực tiếp. Ngày tết đăng bài này, âu cũng là năm mới nói chuyện cũ:-)</span><br />
<br />
1-NOTE CŨ:<br />
<br />
Trong hồi ký Tô Hải, ở phần 5- Bước ngoặt định mệnh, có một đoạn như sau:<br />
<br />
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-cCeJ2p0koXI/TxrqyybMFWI/AAAAAAAABfo/fwjU9gFevU8/s1600/36177_440000997263_668022263_4877271_2453883_n.jpg" onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}"><img alt="" border="0" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5700126436640953698" src="http://4.bp.blogspot.com/-cCeJ2p0koXI/TxrqyybMFWI/AAAAAAAABfo/fwjU9gFevU8/s320/36177_440000997263_668022263_4877271_2453883_n.jpg" style="cursor: hand; cursor: pointer; display: block; height: 30px; margin: 0px auto 10px; text-align: center; width: 320px;" /></a><br />
<span style="font-style: italic;">(Click vào hình để xem lớn)</span><br />
<br />
Theo nhạc sỹ Tô Hải, Nhân vật đại đội trưởng trung đoàn tây tiến là Vũ Như Trang, là tác giả của bài hát “ Tiếng Cồng Quân Y”. Tuy nhiên, có lẽ do thời gian đã lâu, bác Tô Hải có một chút sai lầm trong trí nhớ nên nhớ sai HỌ của người đại đội trưởng đó ( tôi đã trực tiếp gọi điện cho bác Tô Hải để đính chính). Đúng ra tên thật của người đại đội trưởng ấy là NGUYỄN Như Trang chứ không phải VŨ Như Trang. <br />
<br />
Tôi biết điều này bởi bác Trang ( NGUYỄN Như Trang) chính là bác ruột của tôi ( anh của bố tôi).Bác tôi hy sinh khi một mình bị quân Pháp bao vây trong một ngôi nhà sàn tại làng Mu, thôn Ngọc Lâu, châu Lạc Sơn. Chính tôi sau này đã đi dựng lại hai bài hát của bác, 1/ “Tiếng cồng quân y”, và 2/ “ Trấn biên cương”. Hồi đó, Lê Dung và Quang Thọ là hai ca sỹ do tôi mời để thu hai bài đó- và bản phối là của Đặng Hữu Phúc.<br />
<br />
<span style="font-weight: bold;">Ca khúc Tiếng Cồng quân Y </span><br />
<br />
<iframe allowfullscreen="" frameborder="0" height="315" src="http://www.youtube.com/embed/2ywkVSvndT4" width="420"></iframe><br />
<br />
<span style="font-weight: bold;">Ca khúc Trấn Biên Cương</span><br />
<br />
<iframe allowfullscreen="" frameborder="0" height="315" src="http://www.youtube.com/embed/9bqO8QC-_KE" width="420"></iframe><br />
<br />
Liên quan đến bác Trang, còn có một câu chuyện rất hay- đó là câu chuyện tình của bác với bác Tô, một cô gái Hà Nội. câu chuyện này sau được bác sỹ Lê Hùng Lâm, cũng là một chiến sỹ trong trung đoàn Tây Tiến kể lại với nhan đề là “ chuyện tình Tây Tiến” –và có đăng lại trong cuốn sách “ Một thời Tây tiến” (câu chuyện đó tôi sẽ đăng dưới đây)<br />
<br />
cô gái tên "Tuyết" trong câu chuyện mà bác sỹ Lê Hùng lâm nhắc tới tên thật là “ Tuyết Tô”. Sau này, tuy bác Tô cũng đã có gia đình riêng, song tất cả các dịp giỗ chạp hay lễ tết, hoặc mỗi khi gia đình có việc quan trọng, bác vẫn đều tới và tự coi mình như con dâu trong nhà chúng tôi. Chồng con bác cũng biết rõ về mối tình đầu của bác với bác Trang tôi, và hoàn toàn tôn trọng mối quan hệ này giữa bác và gia đình chúng tôi. Ông nội tôi cũng có nhắc đến bác Tô trong một bài thơ, mà tôi quên hết, chỉ còn nhớ câu <i>" Chị Tô cô gái sông Lô, hát hay giọng chẳng chịu thua tiếng đàn"</i><br />
----<br />
<br />
<span style="font-weight: bold;">Chuyện tình Tây Tiến</span><br />
<span style="font-style: italic;">Lê Hùng Lâm</span><br />
<br />
Đêm đêm lính Tây Tiến thường kháo nhau đủ chuyện, sôi nổi nhất là chuyện tình. Thật hư đến đâu, nhiều ít thế nào, ai mà biết được. Càng thêm bớt càng li kỳ và đứa nào kể cũng bảo mình rõ mười mươi. Lâm kể mình biết chuyện tình của đại đội trưởng Trang. Hồi ấy trong đại đội, mình là chú bé nhỏ nhất, nhanh nhẩu nhất và hình như cũng xinh xẻo. Anh Trang chọn mình làm liên lạc viên. Mình thích được các anh trao giấy tờ, chạy như con thoi, tung tăng xuống các trung đội, tiểu đội. Bị trêu là “em gái” đại đội trưởng mình cũng thích thích. Tuy vậy càng sống cạnh anh mình càng thấy đại đội trưởng gì mà đánh trận thì hăng, về nghỉ lại mơ mơ màng màng. Có lúc anh thẫn thờ nhìn mình như nhìn một người khác. Anh còn bắt mình ngồi làm mẫu cho anh vẽ. Anh vẽ hàng chục, hàng trăm lần, nhưng cứ đến đôi mắt lại không vừa lòng, vẽ lại. Mình nghĩ anh vẽ mắt ai chứ không phải mắt mình.<br />
<br />
Một hôm tiểu đội trưởng Phúc lên bù khú với đại đội trưởng, xưng hô mày tao. Thì ra họ là bạn cùng lớp trường Thăng Long. Phúc bảo: “Chỉ tao biết tại sao mày chọn cu Lâm làm liên lạc viên. Nó có đôi mắt giống con Tuyết thế! Cứ tưởng chiến đấu 2 tháng sau về giải phóng Hà Nội ngờ đâu 2 năm rồi. Mày có tin tức gì về Tuyết không?” Trang thở dài: “Nhớ quá! Sau trận này về tao phải tìm Tuyết”. Ngày ấy nghe nói có đứa con gái đẹp đứng bán sách ở phố Bà Triệu, các anh liền rủ nhau đi ngắm xem sao thì được chứng kiến tài đối đáp của cô hàng sách .Hai thanh niên đến hỏi: “Cô có Làm đĩkhông”. Tuyết tỉnh bơ: “Không, chỉ có Hai thằng khốn nạn”. Đó là tên hai cuốn tiểu thuyết đang bán chạy. Cũng từ đó Phúc và Như Trang la cà ở hiệu sách này. Đáo để với ai chứ với bộ đội thì cô đon đả, bắt chuyện rất nhanh.<br />
<br />
- Nó mê mày cao to, đẹp trai, sao vành súng lục, chứ lùn tịt như tao ăn thua gì. Thế chúng mày yêu từ lúc nào?<br />
<br />
- - Thư đầu tao nhắn Tuyết là bận chỉ huy không ra được, nhờ mách bảo có sách gì hay. Không ngờ thư gửi lại giới thiệu cuốn “Triết học Kăng” vừa xuất bản và Tuyết còn bình luận về Rút-xô, Mông-tét-xki-ơ… thư của chúng tao cứ chuyển dần sang triết lí tình yêu rồi yêu nhau thật. Những ngày sôi sục chuẩn bị đánh Tây cũng là những ngày cuối chúng tao dạo quanh hồ Gươm, tà áo dài của Tuyết cuốn quanh quân phục của tao. Hôm tác chiến ở Vĩnh Tuy moóc-chi-ê và pháo địch nã tan tành các chiến lũy. Tao về hầm chỉ huy chợt thấy Tuyết. Hỏi sao đến được đây thì Tuyết nói đưa gia đình đi tản cư về quê rời trở lại làm cứu thương hết mặt trẩn cửa ô này sang cửa ô khác để tìm tao. Cả mặt trận phía nam Hà Nội nổi tiếng đại đội anh Trang. Thế là tìm được. Lần ấy chúng mình thề gắn bó với nhau suốt đời, đến ngày chiến thắng sẽ cưới nhau. Tuyết vẫn mặc áo tím, cái áo dài tím nổi màu giữa hiệu sách, loang loáng ven bờ hồ nay được cắt ngắn và xuất hiện ở trận địa Tao bồi hồi, lúng túng khi ngửi thấy mùi nước hoa. Bao thằng cầm súng băng qua vẫn ngoái nhìn lại cái áo tím thoảng mùi hoa thơm. Tao nhớ rồi, ba ngày sau mày vẫn trêu tao là còn mùi nước hoa trên áo. Thế rồi đi Tây Tiến, bặt tin nhau.<br />
<br />
Trú quân ở Mường Pùng, mỗi khi tắm suối về lính ta lại sôi nổi tả cảnh các cô tắm suối. Có anh một ngày đi tắm mấy lần. Đại đội trưởng thì khác, bảo là đi tắm nhưng anh vẫn quân phục chỉnh tề, mũ sắt chụp đầu, hiên ngang với khẩu “côn bát” và thắt lưng Mỹ trễ sườn, cứ như ra trận. Mình đi theo thấy lần nào anh cũng rẽ qua cái nhà sàn gỗ ấy và lần nào cũng thấy trong cửa sổ có mấy cô gái Lào khúc khích đấm nhau, Họ đẩy ra trước cô xinh nhất, mặc áo tím, gọi lơ lớ “anh bộ đội”. Đại đội trưởng mặt mày rạng rỡ. Chỉ huy gì mà cười tình tứ thế. Dịp ấy đúng lễ té nước, bộ đội đều được dân Mường Pùng té nước cầu phúc và cố chạy cho khỏi ướt. Riêng đại đội trưởng, cứ đứng cho cô áo tím giội hết cả bương. Đêm hôm đó anh lên cơn sốt rét. Mình nghe thấy trong tiếng run cầm cập anh gọi “la vi-ô-let” (violette = tím). Dọc đường Tây Tiến, gặp Trang anh em thường nheo mắt gọi “la vi-ô-let”, ít người biết cô áo tím nào.<br />
<br />
Trong trận đánh Mường Lồ anh đang xông lên thì trúng đạn. Anh to nặng quá nhưng mình cũng cõng được ra bờ suối. Khi cái đau đã ngấm và gió rét nổi lên, anh ôm chặt mình vào lòng, hai anh em cùng ấm. Anh thều thào: “Nếu anh có sao, chú tìm gặp chị Tuyết nói là chị vẫn luôn luôn ở bên anh”. Mình quờ tay ngắt được một bông hoa dại giơ lên: “Anh ơi, hoa tím đây!”.<br />
<br />
Sau trận chỉ huy anh dũng ấy, anh được thưởng huân chương và được nghỉ phép 10 ngày về thăm nhà. Anh xin bố mẹ anh tìm gặp bố mẹ chị, cho anh chị được đính hôn. Hai gia đình đều là nhà giáo, đang tản cư. Đêm trăng trên con đò nhỏ, hai ông bố họa thơ, hai bà mẹ chuẩn bị thức nhắm và đôi trai gái tự tình. Đã có một dòng sông kháng chiến chở một con đò đầy ắp hạnh phúc thanh cao đến thế.<br />
<br />
Trờ về đại đội, mỗi khi kiểm tra các đơi vị hay trinh sát trận địa anh đều mang mình đi theo, có lúc hai anh em rong ruổi mỗi người một ngựa. Mình thích nhảy ngựa mà anh lại cứ đỡ mình. Mình trêu: “Giá em mặc áo tím phi ngựa theo anh thì tuyệt trần”. Anh bảo: “thế thì tớ bế cậu lên ngồi cùng”. Được anh quý như “em gái” mình cũng đỡ nhớ nhà và càng quấn quýt bên anh.<br />
<br />
Một hôm có tiếng súng nổ ở đầu nhà. Báo động, cả đại đội bộ bật dậy, chạy ùa xuống cầu thang. Đại đội trưởng đã đứng đấy cầm roi quất vun vút, ra lệnh quay lại nhảy qua cửa sổ. Bị roi quất đau quá, mình kêu to: “Em đây mà, anh Trang, em đây mà”. Anh quát: “Em thì em” và cứ quất mạnh. Mình ôm đầu, quay lại nhảy qua cửa sổ. Bị đánh nhiều nhất, đau nhất, mình rất ức. Sớm hôm sau anh đến vỗ vai mình, mình quay mặt đi: “Sao đánh người ta đau thế” rồi quyết xin xuống tiểu đội chiến đấu. Từ đó xa anh nhưng nhờ cách rèn quân nghiêm khắc của anh mà bao lần mình thoát chết. Địch đột kích cứ nhằm cầu thang lia đạn, mình bao giờ cũng tìm cách nằm cạnh cửa sổ nhà sàn, có động là nhảy qua.<br />
<br />
Chuyện anh hy sinh có nhiều người kể khác nhau, người bảo địch lùng sục tiêu diệt hết đội trinh sát do anh dẫn đầu, người nói anh đã bắn trả quyết liệt, địch gọi không hàng và dành viên đạn cuối cùng cho mình. Tên quan hai Pháp đã ngả mũ, nghiêng mình trước xác anh: “Tôi xin tỏ lòng khâm phục người anh hùng trẻ tuổi”. Riêng mình, mình biết mỗi lần cùng anh lau khẩu “côn bát”, anh lau rất kỹ viên đạn cuối cùng và nói sẵn sàng dành cho anh, quyết không để lọt vào tay giặc. Được tin anh hi sinh mình vô cùng ân hận, sao mình đã dỗi, đã bỏ anh, không ở bên anh chiến đấu bảo vệ anh, mình biết nói sao với chị Tuyết.<br />
<br />
Dọc đường kháng chiến mình đi tìm chị. Tìm chị ở khu 3. Tìm chị ở Việt Bắc. Một chiều đông, hành quân qua Thanh Cù, ghé vào quán nước bên đường mình nghe một bà cụ than thở: “Thương cô giáo quá! Trẻ đẹp thế mà mang mãi khăn tang. Chồng đã cưới đâu mà cứ về săn sóc bố mẹ chồng, nuôi dạy đàn em chồng, thân thiết như ruột thịt. Đâu như đang ở hiệu ảnh Như Trang cuối phố”. Nghe tên Như Trang, mình bàng hoàng, bỏ bát nước, chạy vượt hàng quân đến hiệu ảnh. Sững người thấy chị áo tím sờn vai với vành khăn trắng, ngồi bóc sắn giữa đàn em nhỏ, mình gọi:<br />
<br />
- Chị ơi, chị là chị Tuyết?<br />
<br />
Chị ngước mắt nhìn lên. Ôi, đây là đôi mắt mà anh Trang vẽ mãi.<br />
- Sao chú biết tên tôi? Chớp chớp mắt, chị cắn môi, run rẩy. Chú Lâm phải không? Vào đây kể chuyện anh Trang đi!<br />
- Thưa chị, em đang vội hành quân. Mình nghẹn lời.<br />
<br />
------<br />
<br />
Ông bà nội tôi khi đó đã làm rất nhiều thơ về bác Trang, tôi chỉ còn nhớ láng máng mấy bài:<br />
<br />
<span style="font-weight: bold;">Thơ của Bà:</span><br />
<br />
<a href="http://3.bp.blogspot.com/-wxFiA1_aCmw/TxrraMRmhJI/AAAAAAAABf0/0QxtVN9CXxA/s1600/72464_443642987263_668022263_4945193_696183_n.jpg" onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}"><img alt="" border="0" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5700127113594963090" src="http://3.bp.blogspot.com/-wxFiA1_aCmw/TxrraMRmhJI/AAAAAAAABf0/0QxtVN9CXxA/s320/72464_443642987263_668022263_4945193_696183_n.jpg" style="cursor: hand; cursor: pointer; display: block; height: 320px; margin: 0px auto 10px; text-align: center; width: 239px;" /></a><br />
<span style="font-style: italic;">Hình bà nội tôi</span><br />
<br />
1/ bài này làm khi tiễn bác Trang quay lại mặt trận<br />
<br />
Thu về con biệt mẹ đi<br />
Cánh đồng trước cửa xanh rì lúa non<br />
Đến nay lúa chín đỏ ngòm<br />
Thu đi đông đến mong con chưa về<br />
Nhớ thương lo ngại nhiều bề<br />
Gió đông lạnh lẽo làm tê tái lòng<br />
Ngoảnh nhìn tới chốn thư phòng<br />
Nhện chăng án sách bụi lồng bút nghiên…<br />
<br />
( bài này quên mất mấy câu cuối)<br />
<br />
<br />
2/ Bài này làm khi nghe tin bác hy sinh<br />
<br />
Anh Trang mất làm đau lòng mẹ<br />
Chí phục thù đâu nhẽ là thôi<br />
Các con còn bé con ơi<br />
Thù nhà nợ nước mặc người mới căm<br />
<br />
Hồn người khuất còn nằm trông đợi<br />
Mượn tay ai trả mối thù sâu<br />
Đông về rồi lại sang thâu<br />
Tháng ngày đi mãi thương đau vẫn còn<br />
<br />
Nhìn trời đất nước non tồn tại<br />
Anh các con đi mãi không về<br />
Người đi vẹn một lời thề<br />
Kẻ còn chăng nhớ hận kia ngập trời<br />
<br />
<span style="font-weight: bold;">Thơ của ông:</span><br />
<br />
1/ Đắp mãi mồ con sợ nặng con<br />
Hỏi con, còn, mất, mất hay còn<br />
Tình cha đã nặng vun chi đất<br />
Phủ nặng mình con nghĩa nước non<br />
<br />
2/ ( bài này là bài ông nội làm vào ngày giỗ hết [ giỗ lần thứ ba] bác Trang<br />
<br />
rằng hết rằng còn con hỡi con<br />
Lòng cha ngao ngán mấy thu tròn<br />
Tình nhà thương kẻ duyên tan nát<br />
Tin nước mừng ai trận thắng dồn<br />
Những ước nghìn đêm nghìn mộng mị<br />
nào lo một giỗ một mai mòn<br />
Ngày về rợp phố sao cờ đỏ<br />
Khỏ tả niềm vui nước vắng con<br />
<br />
3/ Bài này là bài tiễn bác Trang ( ông nội và bác Trang cùng làm chung khi chèo thuyến trên đầm Chính Công- trước khi bác Trang quay lại mặt trận)<br />
<br />
Văn nhân ngồi với quân nhân<br />
Dưới vầng trăng sáng thuyền lần sóng êm<br />
Nhấp nhô muôn ánh sao chìm<br />
Sóng đầm man mác sóng tim dạt dào<br />
bầu trời đây mảnh chinh bào<br />
Nước non đây dấu anh hào là đây<br />
Trăng xưa cũng nước non này<br />
Tình say nước biếc trăng say mặn mà<br />
vẳng nghe nhịp trống xa xa<br />
Chạnh niềm tưởng lúc quân ra sa trường<br />
Một đi là để tình vương<br />
Niềm thương nỗi nhớ duyên càng thắm tươi<br />
<br />
<br />
2- TƯ LIỆU MỚI:<br />
<br />
<span style="font-weight: bold;">Về cái chết của Tiểu đoàn phó Như Trang </span><br />
<br />
Cái chết của Tiểu doàn phó Như Trang là cái chết của người chiến sĩ dũng cảm ,anh hùng .Cái chêt của anh làm trấn động dữ dội trong hàng ngũ cán bộ , chiến sĩ trung đoàn 52 Tây tiến . Song , cái chết của anh ra sao ? như thế nào ?thì không có ai giải đáp nổi . Có những anh em chưa hề biết mặt Như Trang cũng tưởng tượng ra cái chết của anh . Và , tất nhiên ai cũng xác nhận đó là cái chết vì dân , vì nước .<br />
<br />
Cho đến nay bè bạn , đồng đội ,gia đình anh cũng nghi vấn : tại sao TÔI , người viết những giòng chữ này hiểu anh một cách tường tận như vậy ? Tại sao TÔI biết được trận đánh và tên quan hai Pháp ngả mũ , cúi đầu trước thi thể người chiến sĩ trẻ tuổi , anh hùng – người đã tiêu diệt hàng chục tên lính Lê dương thuộc quyền của hắn ? Để cho sáng rõ câu chuyện trên , tôi viết thêm phần tham khảo và dị bản để minh chứng cho cái chết của người chiến sĩ mà đến kẻ thù cũng phải khâm phục .<br />
<br />
Khoảng cuối năm 1947 đầu năm 1948 tôi bị sốt rét điều trị ở bệnh xá trung đoàn đóng quân ở Châu Trang . Anh Như Trang bị thương trận Mường Lồ cũng điều trị ở đó . Thương binh ngày đó it,chỉ có nhiều bệnh binh bị sốt rét . Tôi là chiến sĩ đại đội 121 , Như Trang là đại đội trưởng . Đại đội trưởng và chiến sĩ khoảng cách rất lớn , quan hệ với nhau bằng sự chỉ huy và phục tùng , nên hầu như biết mặt mà không hiểu nhau . <br />
<br />
Tôi là học sinh trung học ở Nam Định , toàn quốc kháng chiến tham gia bộ đội và theo đơn vị lên Tây Tiến . Năm 13 tuổi tôi học ở trường giòng nhà thờ Nam Định Ở trong tốp thánh ca nên được học nhạc lý ,học các loại đàn Harmonium., ha –uy-di , băng dô, an tô . Ơn chúa , tôi băt đầu đọc thánh kinh , thứ sáu không ăn thịt . Mẹ tôi hoảng sợ - Cho thàng này học trường nhà giòng khéo thành cố đạo mất ! Bà không cho tôi học trường nha giòng nữa . Song , tôi đã hấp thu được chút ít nhạc lý với giọng thánh ca mượt mà , quyến rũ . <br />
<br />
Tôi gặp Như Trang ở bệnh xá Châu Trang .Tất nhiên anh với tôi dính nhau như hình với bóng , hai tâm hồn đồng điệu . Anh coi tôi như người em nhỏ . Sau những lần trao đổi về âm nhạc , về ca hát , chuyện trên trời dưới đất anh thường tâm sư với tôi , Từ chuyện cãi nhau với Tây hồi đóng quân ở Lò Lợn ,Hà Nội , chuyện quan hệ tới đồng chí Trần Độ ( sau này là trung tướng phó chính ủy quân Giải phóng Miền nam VN , Bí thư Trung ương Đảng , Trưởng ban Tuyên huấn trung ương ) đến chuyện tình của anh với chị Tuyết Tô … Anh còn rủ tôi , khi có điều kiện lên Vũ Ẻn thăm gia đình anh tản cư ra đó .<br />
<br />
Tôi và anh thường hát những ca khúc : Cô láng giềng , đêm đông , Đàn chim Việt , chiều Yên Thế , Thăng Long hành khúc … Khi anh đàn , tôi hát . Khi cả hai anh em cùng song ca . Anh em thương bệnh binh quây chung quanh ngọn lửa võ tay hoan hô hoặc cùng hát theo .Tiêng hát cua chúng tôi làm ấm lòng chiến sĩ xa nhà , xua tan những đói rét , đau đớn , khắc nghiệt của núi rừng <br />
<br />
Ca khúc “ tiếng cồng quân y “ anh sáng tác , Tôi là người được hát đầu tiên . . Tiếng hát trong veo của tôi hòa cùng tiếng đàn băng dô ròn tan của anh trong ánh lửa bập bùng giữa núi rừng thanh vắng . Chúng tôi hát với linh hồn của hàng trăm chiến sĩ chết vì sốt rét , cùng tiếng cồng của người trưởng bản mỗi khi đem chôn anh em đã mất trong manh chiếu , tạo nên cảm giác ớn lạnh trong tâm hồn . Tôi hát đoạn một , đến đoạn hai “…người chưa muốn chết , nước non chưa yên , nhưng mảnh rừng ác độc đã đưa người xuống nơi tuyền đài …” Tiến đan bỗng tặt lim , anh rơm rớm nước mát . Rồi, cả hai chúng tôi cùng ôm nhau …khóc !. Chúng tôi không hát thêm được nữa . Đó là những ngày sâu đậm , nhiều ý nghĩa được sống cùng anh .<br />
<br />
Đầu năm 1950 cuộc kháng chiến có bước phát triển mới , Bộ tư lệnh Liên Khu tổ chức trung đoàn chủ lực , quả đâm thép của Liên khu . Tiểu đoàn Ký Con do tiểu đoàn trưởng Bùi Sinh chỉ huy từ Hải Phòng lên . Tiểu đoàn Lê Lợi do tiểu đoàn trưởng Lê Ngọc Hiền từ Nam Định lên, Tiểu đoàn Nguyễn Huệ trong đó có đại đội 121của tôi do tiểu đoàn trưởng Hoàng Khải Tiến chỉ huy từ Tây Tiến xuống . Tiểu đoàn trợ chiến Hoàng Diệu mới thành lập do tiểu đoàn trưởng Hùng Quý chỉ huy . Trung đoàn chủ lực của Liên Khu được mang danh là “ Trung đoàn chủ lực Ký con ,phiên hiệu Trung đoàn 66 “. Các đơn vị về hội sư ở khu vực Ba Thá , Mỹ Đúc dọc sông Đáy . Sau đó , toàn đơn vị chuyển dịch về khu vực Quế Quyển , Vân Chu , Phù đạm , Phú Viên đối diện với thị xã Hà Nam cho gần mặt trận .<br />
<br />
Tôi được điều động về tiểu ban Địch vận thuộc phòng Chính trị trung đoàn và được cử vào thành Nhà Hồ - Thanh Hòa , nơi đó có một đại đội hàng binh đóng quân . Tôi được phép tuyển chọn mấy anh em hàng binh về trung đoàn phục vụ cho công tác địch vận . <br />
<br />
Lang thang ở đó hàng tuần lễ chưa biết chọn ai . Trời xui khiến thế nào , trong bữa cơm trưa , một hàng binh cao to như con gấu ngựa ngồi trước mặt tôi . Anh giới thiệu tên anh là Grand Wath Wath , người Angiªri . Trước khi đăng lính , anh là phu khuân vác ở cảng An giê . Tôi hỏi anh ở đơn vị nào trong quân đội Pháp ? Anh trả lời ở scadron Mường . ( ngày đó quân đội Pháp tổ chức xứ Mường tự trị đưa dân tộc Mường thành khu tự trị đối trọng với Chính phủ Kháng chiến của ta ,do quan lang Đinh Công Tuân đứng đầu ) . Tôi mừng như bắt được vàng .<br />
<br />
-Scadron Mường rất rộng lớn ,anh đồn trú ở đâu ?<br />
<br />
- Tôi đóng quân ở vùng Ngọc Lạc , Đầm , Nghẹ !<br />
<br />
Tôi không tin ở tai mình <br />
<br />
- Anh có biết trận Gò Mu ngày 20 tháng 10 -1947 không ? ( 1947 !?)<br />
<br />
Anh nhìn tôi trân trân .<br />
<br />
- Tại sao anh biết trận đánh đó ?<br />
<br />
- Tôi là chiến sĩ đơn vị đó .<br />
<br />
Mắt anh ta sáng lên .<br />
<br />
Sau trận Gò Mu, tôi chạy sang hàng ngũ Việt Minh .<br />
<br />
Nghe chuyện lạ , tôi gạn hỏi , Anh ta trả lời :<br />
<br />
- Câu chuyện là thế này . Tôi là dân nghèo ở thủ đô An –giê , đăng lính để kiếm sống . Sĩ quan Pháp nói với tôi rằng : Việt Minh là tụi giặc cỏ , không cần đánh cũng tan . Chúng mày volontaire ( tình nguyện ) sang Việt Nam mà chơi . Con gái Mường đẹp lắm . Muốn mấy đứa cũng có . Vậy là tôi sang Việt Nam và đăng ký lên đất Mường .<br />
- <br />
Được sự thông báo và dẫn đường của tên Mường gian , trung đội Lê Dương dưới sự chỉ huy của viên trung uy người Pháp lần theo con suối cạn ,bất ngờ tấn công một căn nhà sàn không lớn lắm ở Gò Mu. Trung đội Lê dương ào lên không gặp phải sự chống cự nào . Một viên quan ba Việt Minh nhảy qua của sổ bị một băng Tôm sơn lia theo rụng như tàu lá . Còn một viên quan ba nữa chống cự với trung đội Lê dương từ 11 giờ 30 sáng tới 2 giờ chiều mới bị tiêu diệt .<br />
<br />
Anh ta dừng lại , đôi mắt lim dim như hình dung lại trận đánh . Tôi hỏi :<br />
<br />
- Tại sao anh biết được hai người ấy là hai ông quan ba ?<br />
- Chúng tôi bắt được chiếc sà-cột , trong đó đựng giấy tờ và phương án tác chiến tấn công khu vực Ngọc Lạc , Lang Chánh . Chúng tôi chuẩn bị mọi phương án kháng cự . Nhưng không thấy các ông tiến hành chiến dịch .<br />
<br />
- - Các anh có cả một trung đội Lê dương cùng chiếc nhà sàn nhỏ bé , chiến đấu với một chiến binh VN mà mấy tiêng sau mới hạ được thì …quá xoàng ! <br />
<br />
- Hắn lắc đầu -, Anh không biết đó thôi . Trung đội Lê dương này là những người linh sơn cước thiên chiến ,mà gần chục tên chết dưới chân cầu thang nhà sàn .Cách đánh của người chiến binh này rất lạ . Không hiểu ông ta học ở trường quân sự nào ?.Ai day ông ta mà giỏi thế ?. <br />
<br />
- Nghe tiếng động , biết ông đứng một chỗ ,khi quân Lê dương xông lên thì đạn lại nổ một nơi . Bọn Lê dương leo lên đều trúng đạn vào mặt . Gần chục tên mất mạng . Loay hoay hơn ba tiếng đồng hồ mới hạ gục được đối phương .<br />
<br />
- Tôi là lính cận vệ (garde corp )của viên trung úy nên theo sát từng bước người chỉ huy . Tiếng súng im rất lâu , bọn Lê dương và viên trung úy mới dám bò lên . Viên quan ba – Tôi sửa lại – Ông ta là quan tư (commandant ) chứ không phải quan ba – nằm gục trên khuông ( sàn tiếp giáp với nhà dùng để phơi phóng , rửa chân trước khi bước vào nhà ) máu loang đầy sàn , chẩy dài xuống đất , khẩu súng colt Bass vẫn cầm trong tay còn tỏa khói .<br />
<br />
- Tôi đứng sau người chỉ huy , nên được chứng kiến câu nóiđầy thán phục của viên trung úy Pháp đối với người chiến sĩ VN .<br />
- Je salut profond avant le mourir heroisquement du jeune officier! ( Tôi cúi đầu chào , thán phục trước caí chết anh hùng của người sĩ quan trẻ tuổi ). <br />
<br />
- Trận đánh đó làm tôi hiểu ra rằng – Quân đội VN không phải là “bọn giặc cỏ không cần đánh cũng tan “ như bọn Pháp nói , mà là những người yêu nước , được tổ chức chặt chẽ Họ chiến đấu giải phóng dân tộc khỏi sự thống trị ,áp bức của bọn thực dân phản động Pháp . Giống như quân du kich Angieri chúng tôi dang sống ở trên xa mạc, Đội quân đó đã từng đốt cháy hàng chục đoàn công – voa của bọn Pháp . Rất tiếc chúng tôi không có được người chỉ huy tài giỏi như các anh .<br />
<br />
- Sau trận đó , cùng viên trung úy được thuyên chuyển về căn cứ Phương Lâm , Hòa Bình , tôi vác súng chạy sang hàng ngũ Việt Minh . Mong rằng quân du kích Angieri chúng tôi cũng có những chiến sĩ oai hùng , dũng cảm như các anh . <br />
<br />
- Lần đó, tôi tìm được mấy anh hàng binh vệ phục vụ cho công tac địch vận trung đoàn : Grand Wath Wath , tên Việt là Cao , Verne ngưởi Đức tên Việt là Đức , Antoine Vaise người Đức tên Việt là An.. Jean Chapuis người Pháp ,tên Việt là Giăng và một anh người Hung-ga-ri tên Việt là Vinh .<br />
<br />
- Chúng tôi sống với nhau một thời gian ngắn nhưng rất thuận hòa , yêu thương Ngày ấy đói lắm . Các anh to lớn ăn khỏe luôn luôn đói . Bà con thương lắm , để phần các anh rổ khoai , rổ sắn …. Chúng tôi còn hò nhau mò hến ở sông Đáy đem về nấu cháo ăn ….<br />
<br />
- Khoảng năm1956 tôi được tin anh Cao lấy vợ và ở nông trường Ba Vì . It lâu sau nghe tin anh cùng vợ về Angieri . Khoảng năm 1985 tôi được tin anh cùng vợ sang Ha Nội đi tìm chúng tôi , nhưng rất tiếc không được gặp . Nghe tin anh là một nhà công nghiệp cán thẹp giầu có , nổi tiếng ở Angieri .<br />
<br />
- Sáu chục năm lục tìm những ký ức , quả thực khó khăn ,mất ngủ . Sống lại những ngày xưa cũ , cùng những giọt nước mắt rơi trên bàn phím Tôi mong rằng những dòng chữ này của tôi làm sống lại những trang sử vẻ vang của đoàn quân Tây tiên; ,làm sống lại phần nào hình ảnh để tri ân tiểu đoàn phó Như Trang , người chỉ huy lỗi lạc ,chiến sĩ kiêu hùng của trung đoàn Tây Tiến chúng ta .<br />
<br />
<br />
<span style="font-style: italic;">Xong lúc 15 giờ ngày 15 tháng1 -2012 ( 24tháng chạp Kỷ Mão </span>) <br />
<br />
<span style="font-weight: bold;">Trần Kỳ</span><br />
Tập thể Hàng Không , Thụy Khuê , Bưởi <br />
Tây Hồ , Hà Nội .Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-15940231481563082522012-01-20T10:12:00.000-08:002012-01-20T16:21:53.188-08:00Như Huy dịch|Diễn văn của ông thợ cạo trong phim "Nhà độc tài vĩ đại" [a great dictator] *<iframe src="http://player.vimeo.com/video/35395214?title=0&byline=0&portrait=0&autoplay=1" width="398" height="299" frameborder="0" webkitAllowFullScreen mozallowfullscreen allowFullScreen></iframe><br /><br /><br />Xin thứ lỗi, nhưng quả thật tôi không muốn làm hoàng đế. Đó không phải là công việc của tôi. Tôi không thể cai trị hay chinh phạt ai cả. Nếu được, tôi chỉ muốn giúp người khác, người Do-Thái, người không Do-Thái, người da trắng, hoặc da đen.<br /><br />Tất cả chúng ta đều muốn giúp đỡ nhau, vì con người là như vậy. Tất cả chúng ta đều muốn sống vì hạnh phúc của người khác chứ không phải trên sự khốn khổ của người khác. Chúng ta không hề muốn căm ghét hay khinh bỉ nhau. Thế giới này có đủ chỗ cho mọi người, và trái đất phong nhiêu đủ nuôi sống tất cả chúng ta<br /><br />Con đường của đời sống đã có thể tự do và đẹp đẽ. Nhưng chúng ta đã lạc lối mất rồi.<br /><br />Lòng tham đã đầu độc tâm hồn chúng ta và giam hãm chúng ta trong nỗi hận thù; chính nó đã dẫn lối chúng ta tới sự khốn cùng và làm chúng ta đổ máu<br /><br />Tốc độ của chúng ta được phát triển để trở nên nhanh hơn, nhưng chúng ta chỉ tự giam hãm chính mình. Máy móc giúp chúng ta giàu có, nhưng lại khiến lòng tham của chúng ta trở nên vô đáy.Tri thức chỉ khiến chúng ta thêm cay nghiệt, trí thông minh chỉ khiến chúng ta cứng lòng và không biết thương-nhau. Thay vì xúc-động, chúng ta chỉ tin vào tư duy; Chúng ta cần nhân tính chứ không cần máy móc; cần sự tử-tế và mềm-lòng chứ không cần trí thông minh<br /><br />Thiếu đi những phẩm chất này, cuộc đời sẽ chỉ còn bạo lực và chúng ta sẽ đánh mất tất cả. Máy bay và sóng truyền thanh đã đưa chúng ta lại gần nhau hơn. Bản chất của các phát minh này là nhằm kêu gọi lòng tốt của con người, kêu gọi tình bằng hữu phổ quát, tức điều sẽ giúp đoàn kết tất cả chúng ta. Ngay lúc này đây, lời tôi nói đang được hàng triệu con người khắp thế giới lắng nghe, hàng triệu đàn ông, đàn bà, và bé thơ đang tuyệt vọng; Họ chính là nạn nhân của một hệ thống khiến con người tra tấn và giam giữ những con người vô tội. Với những ai có thể nghe thấy tiếng tôi, tôi xin nói: đừng tuyệt vọng<br /><br />Sự cùng khổ mà chúng ta chịu đựng hôm nay chỉ là khoảnh khắc đang tàn lụi của lòng tham, và nó biểu lộ nỗi đắng cay nơi những kẻ đang sợ hãi trước sự tiến bộ của con người. Sự căm ghét con người sẽ phải chấm dứt, mọi kẻ độc tài sẽ phải chết, và quyền lực chúng đánh cắp từ tay nhân dân sẽ trở lại với nhân dân. Kể cả khi con người có ngã xuống, sự tự do sẽ không bao giờ tàn lụi…<br /><br />Hỡi những người lính, đừng bán mình cho lũ thú dữ, cho những kẻ khinh miệt các bạn và bắt các bạn làm nô lệ, những kẻ đưa các bạn vào hệ thống và kiểm soát ý nghĩ, hành động, và cảm xúc của các bạn, những kẻ trui rèn các bạn, kiểm soát khẩu phần của các bạn, xem các bạn như gia súc, và dùng các bạn như những con tốt thí. Đừng bán mình cho lũ người trái tự nhiên, lũ người máy, với tâm địa máy. Các bạn không phải là những bộ máy. Các bạn không phải là gia súc. Các bạn là Người. Tự đáy tim mình, các bạn biết yêu-thương người khác. Các bạn không căm ghét, vì chỉ những kẻ không được yêu thương mới căm ghét. Hỡi những người lính; đừng chiến đấu để nô lệ kẻ khác, hãy chiến đấu để giải phóng con người. Chương 17 nơi sách Luca có viết:” Nước đức Chúa Trời ở trong các người”. Không phải trong một người hay một nhóm người, mà trong tất cả chúng ta: tức trong chính các bạn-nhân dân.<br /><br />Các bạn-nhân dân, các bạn có sức mạnh sáng tạo ra máy móc, sáng tạo ra hạnh phúc. Các bạn có sức mạnh làm cho cuộc sống trở nên tự do, đẹp đẽ, biến nó thành một cuộc thám hiểm tuyệt vời. Vậy, nhân danh dân chủ, hãy sử dụng sức mạnh ấy, hãy đoàn kết lại. Chúng ta hãy chiến đấu cho một thế giới mới, một thế giới tử tế, nơi con người có cơ hội có việc làm, nơi bạn sẽ có tương lai, có tuổi già và có được sự bảo vệ. <br /><br />Cũng bằng việc hứa hẹn những điều này, lũ thú dữ đã bước lên được chiếc ngai quyền lực. Song chúng chỉ nói dối mà thôi. Chúng không hề, và sẽ không bao giờ giữ lời hứa. Những kẻ độc tài giành lấy tự do, nhưng lại bắt người khác làm nô lệ. Giờ đây, chúng ta hãy chiến đấu để hoàn thành lời hứa ấy. Hãy chiến đấu để giải phóng thế giới, để xoá bỏ các biên giới, để huỷ giải lòng tham, sự hận thù, và tâm địa không-biết-khoan-dung. Hãy chiến đấu cho một thế giới có-tình-có-lý, một thế giới nơi khoa học và sự tiến bộ sẽ mang lại hạnh phúc cho tất cả chúng ta. <br /><br />Hỡi những người lính, nhân danh dân chủ, hãy đoàn kết lại.<br /><br />Hãy ngước nhìn lên bầu trời. Mây đen đang tan biến. Mặt trời đang ló rạng. Từ đêm tối, chúng ta đang bước ra ánh sáng. Chúng ta đang đến với một thế giới mới. Một thế giới mà ở đó con người sẽ vượt lên khỏi sự hận thù và tàn bạo. <br /><br />Tâm hồn con người đang được chắp cánh, và cuối cùng, hắn đã bắt đầu bay. Bay vào cầu vồng, vào ánh sáng của niềm hy vọng, vào tương lai, một tương lai rực rỡ thuộc về bạn, về tôi về tất cả chúng ta, hãy ngước nhìn lên, hãy ngước nhìn lên bầu trời…<br /><br /><br />*nguồn: <a href="http://luis.impa.br/chaplin.html">http://luis.impa.br/chaplin.html</a><br />Có tham khảo bản dịch của anh Hoàng Ngọc-Tuấn, ở <a href="http://www.tienve.org/home/music/viewMusic.do;jsessionid=E494852FDF8DCD81506455C482FD900A?action=viewArtwork&artworkId=8974">đây</a>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-2352751452772475772012-01-16T07:51:00.000-08:002013-02-19T08:06:50.766-08:00Mệnh lệnh nhất quyết trong triết học của Kant<span style="font-weight: bold;">Mệnh lệnh nhất quyết</span> (Categorical Imperative), cũng xem: NHƯ THỂ, ĐỘC LẬP (SỰ, TÍNH), TỰ DO (SỰ), NGOẠI TRỊ (SỰ), MỆNH LỆNH, QUY LUẬT, CHÂM NGÔN, TRIẾT HỌC THỰC HÀNH, Ý CHÍ. <br />
<br />
Không nghi ngờ gì, mệnh lệnh nhất quyết là một trong những phương diện nổi tiếng nhất và gây nhiều tranh luận nhất trong triết học thực hành của Kant. Đến nay nó đã được diễn giải theo vô số cách: như nguyên tắc của một môn triết học hình thức rỗng tuếch; như một sự vinh danh cho đức hạnh của người Phổ là sự tuân lệnh mù quáng trước tiếng gọi của nghĩa vụ; như một nguyên tắc nền tảng cho một nghiên cứu duy lý, khách quan về hành vi luân lý (moral)<br />
<br />
Với bản thân Kant, mệnh lệnh nhất quyết dường như bao gồm cả hai khát vọng triết học có vẻ là không nhất quán. Khát vọng thứ nhất, giản đơn hơn, chính là tìm cách thiết lập mệnh lệnh nhất quyết như một nguyên tắc có tính chuẩn tắc dùng để phân biệt các châm ngôn (maxims) [ theo Kant: châm ngôn là các nguyên tắc chủ quan của hành động, chứa đựng một sự quy định phổ biến của ý chí và nhiều nguyên tắc thực hành- ND] về hành động, trong khi khát vọng thứ hai là coi nó như phương tiện để biện minh cho một nghiên cứu đặt trên nền tảng siêu hình học về sự tự do như thể (điều gì đó-ND) độc lập với ý chí. Thảo luận tiếp theo đây cốt nhấn mạnh vào tính nhất quán trong nghiên cứu của Kant về mệnh lệnh nhất quyết, và cụ thể là về việc liệu nó có thể đứng vững được chăng nếu không có một một môn siêu hình học về tự do.<br />
<br />
Trước khi xem xét tuyên bố của Kant về mệnh lệnh nhất quyết trong SHĐL ( Siêu hình học về đức lí) và PPLTTT( Phê phán lí tính thuần tuý) , có lẽ sẽ là hữu ích nếu ta định nghĩa trước nội dung của hai thuật ngữ “mệnh lệnh” và “nhất quyết”. Kant định nghĩa một mệnh lệnh là mọi “mệnh đề biểu hiện một hành động tự do khả hữu, qua đó một mục đích nào đó được hiện thực hoá (L (Lo-gic) tr.58). Các phát biểu như thế được đặt cơ sở trên một dạng “tính tất yếu” khác với tính tất yếu nơi các phát biểu lý thuyết; Hơn là việc nhấn mạnh vào cái Đang-là, các phát biểu (dạng mệnh lệnh-ND) nhấn mạnh vào cái Phải-là. Và cũng như việc, qua một mệnh đề, ta có vô số cách nhấn mạnh vào cái “Đang là”, cũng sẽ có vô số cách khác nhau nhấn mạnh cái “Phải là”. Có vô số hình thức “mệnh lệnh”, mà trong đó “nhất quyết” chỉ là một trường hợp, song là một trường hợp đặc biệt và tiêu biểu.<br />
<br />
Hình thức của tính tất yếu biểu lộ qua sự “Buộc phải” có chung trong tất cả các mệnh lệnh, theo Kant, thể hiện “mối quan hệ của một qui luật khách quan thuộc lý tính với một ý chí không bị xác quyết một cách tất yếu bởi qui luật đó do cấu tạo có tính chủ quan của ý chí ấy” (SHHĐ tr. 413, tr. 24). Mệnh lệnh có thể hoặc là giả thiết, hoặc nhất quyết, và sự phân biệt ở đây chỉ phụ thuộc vào việc liệu mối quan hệ giữa quy luật với ý chí có nhắm hướng tới một mục đích hay không. Trong trường hợp là mệnh lệnh giả thiết, mối quan hệ này sẽ nhắm tới việc đạt tới một mục đích, trong khi với trường hợp mệnh lệnh nhất quyết thì không. Kant còn chia nhỏ mệnh lệnh giả thiết thành hoặc là có tính quả quyết (assertoric) hoặc là có vấn đề (problematic) tuỳ theo việc chúng nhắm tới mục đích thực hữu (actual) hay khả hữu (possible). Các nguyên tắc của một mệnh lệnh giả thiết thực hữu được mô tả như “các quy tắc (rules) của kĩ năng”, hay “mệnh lệnh kĩ thuật” (tài khéo) [quy định phương tiện cần thiết để đạt tới một cứu cánh (mục đích): ví dụ muốn giàu phải thu nhiều hơn chi-ND], trong khi các nguyên tắc của một mệnh lệnh giả thiết khả hữu là “những tư vấn của sự khôn ngoan”, hay mệnh lệnh có tính thực tiễn, thực dụng (pragmatic imperatives) [ ví dụ: hạnh phúc ( kể cả những quy định về ăn, ở , mặc… có lợi cho sức khoẻ-ND]<br />
<br />
Thật rõ ràng là trong SHHĐ và PPLTTT Kant cho rằng truyền thống triết học đạo đức cũ đã chỉ khảo sát các hình thức mệnh lệnh giả thiết (xem, ví dụ bảng tổng kết các nền tảng của những nguyên tắc đạo đức trong PPLTTT, tr 40, tr.41). Tất cả chúng đều trình ra các tuyên bố về hình thức “hành động nhằm thực hiện mục đích X ( X=hạnh phúc, thoả mãn, beatitude [sự vinh phúc], sự phúc lợi, sự hoàn hảo, sự vinh danh Chúa). Mệnh lệnh nhất quyết , trái lại, lại tuyên bố một hành động tất yếu “không cần tham chiếu tới bất kì mục đích nào” mà chỉ quan tâm tới “hình thức của hành động và nguyên tắc mà nó tuân theo” (SHHĐ tr. 416, tr. 26). Ở trường hợp này tính tất yếu nối kết qui luật khách quan với ý chí sẽ “ giữ vai trò như một nguyên tắc thực hành hiển nhiên” (tr. 415, tr. 25)<br />
<br />
Kant đưa ra một số điều kiện giải thích việc vì sao mệnh lệnh này của qui luật ( khách quan) lại có tính nhất quyết đối với một ý chí chủ quan. Trước hết là do mệnh lệnh này có tính hình thức. Tính hình thức này đến từ việc mệnh lệnh ấy không hề quan tâm tới việc thực hiện bất kỳ mục đích cụ thể nào; có nghĩa là mệnh lệnh nhất quyết “không hề quan tâm tới các vấn đề thuộc hành động và kết quả mà hành động ấy nhắm tới, nhưng chỉ quan tâm tới hình thức của hành động và nguyên tắc mà hành động ấy phải tuân theo” (tr. 416, tr. 26). Một điều kiện khác đòi hỏi rằng mệnh lệnh nhất quyết phải được nhận ra ngay lập tức, và chính điều kiện này sẽ dẫn tới điều kiện quan trọng nhất: mệnh lệnh nhất quyết nhấn mạnh tính phổ quát của qui luật. Điều này giải thích tuyên bố về những gì mà Kant mô tả là một mệnh lệnh nhất quyết duy nhất, tức “hành đông chỉ dựa theo châm ngôn, qua đó bạn đồng thời có thể muốn rằng -nó (châm ngôn ấy-ND) trở thành một quy luật phổ quát” (tr. 421, tr. 30).<br />
<br />
Kant sử dụng tuyên bố này về mệnh lệnh nhất quyết như “bộ chuẩn tắc cho việc đánh giá vể mặt đạo đức mọi hành động của chúng ta (tr.424, tr.32). Ông cũng sử dụng nó để làm rõ các hành động được hoàn tất trong phạm vi của mệnh lệnh về nghĩa vụ. Những mệnh lệnh như thế có tính nhất quyết khi chúng tuân theo hình thức “hành động như thể châm ngôn về hành vi của bạn, thông qua ý chí, phải trở thành những định luật tự nhiên phổ quát (tr.421, tr.30). Tuy nhiên Kant đã không hài lòng với các kết quả đáng kể có thể đạt tới được nhờ vào sự sử dụng mệnh lệnh nhất quyết theo kiểu bộ chuẩn tắc. Bản thân mệnh lệnh nhất quyết cũng phải được biện hộ: có nghĩa là, cần thiết phải chứng minh một cách tiên nghiệm rằng thật sự có một mệnh lệnh kiểu này”. Song không chỉ có thế, mệnh lệnh nhất quyết cũng bị đòi hỏi phải “cho thấy rằng có một qui luật thực hành, đòi hỏi bản thân một cách tuyệt đối và không cần có bất kì động lực nào khác, và rằng nghĩa vụ sẽ là điều đến sau qui luật này (tr.425, tr.33). Và kết quả là ông đã phân chia qui luật thực hành và “đặc tính đặc biệt của bản chất con người” theo cách giống với sự phân chia giữa các lãnh địa thuộc xuất tượng (noumenal) và thuộc hiện tượng (phenomenal)trong triết học lý thuyết của ông <br />
<br />
Nhu cầu phải chứng minh sự hiện hữu của mệnh lệnh trước hết dẫn tới việc truy tìm dạng qui luật đòi hỏi một cách tuyệt đối, và rồi tới “điều gì đó, như thể một mục đích tự thân,- có thể trở nên một nền tảng cho các quy luật xác quyết (p. 428, p. 35). Chính điều này sẽ tạo nên nền tảng cho cả mệnh lệnh nhất quyết và qui luật thực hành. Kant chuyển hướng sự truy tìm một mục đích tự thân sang sự truy tìm các hữu thể với “giá trị tuyệt đối”, tức những kẻ tự mình là các mục đích. Ông nhanh chóng định dạng các hữu thể này là các “nhân cách” [persons] và tiến hành việc tìm tính phổ quát của mệnh lệnh nhất quyết “từ sự quan niệm về những gì là một mục đích tất yếu cho mọi người bởi mục đích này chính là một mục đích tự thân”. Công thức của mệnh lệnh này giờ đây là: “ hành động sao cho tính người không những nơi nhân cách của bạn mà cả trong nhân cách của bất cứ ai lúc nào cũng được bạn sử dụng như là cứu cánh (mục đích) chứ không bao giờ như một phương tiện” (tr.429, tr.36). Mệnh lệnh này sẽ được sử dụng như chuẩn tắc để phán đoán các châm ngôn về các trường hợp cụ thể. <br />
<br />
Kant công nhận rằng việc tiến tới một”môn siêu hình học của đức lí”, tức môn siêu hình học, một cách tất yếu, củng cố cho mệnh lệnh nhất quyết,- sẽ đưa triết học thực hành tới một vị trí bấp bênh. Mối nguy này còn được tiếp lực bởi tầm quan trọng mà Kant gán cho khái niệm tự do. Chính tự do đã cho phép chuyển tiếp từ một “môn siêu hình học về đức lí” tới “một phê phán lý tính thực hành”, song tự do cũng lại vừa biện minh (cho), vừa được biện minh (bởi) mệnh lệnh nhất quyết. Tình huống này có nguyên nhân từ hai cách hiểu của Kant về khái niệm tự do. Ông phân biệt giữa tự do tiêu cực, tức sự tư do bị xác quyết bởi các nguyên nhân từ bên ngoài (ngoại trị), và sự tư do như điều gì độc lập (khỏi các nguyên nhân và động lực từ bên ngoài-ND), tức sự tự do nơi một chủ thể tự buộc mình phải tuân theo quy luật. Với dạng tự do sau, ý chí tự là một quy luật cho chính nó, tức không gì khác hơn việc hành động dựa theo một châm ngôn có thể “đồng thời coi bản thân như một quy luật phổ quát áp đặt vào đối tượng” (tr. 421, tr. 30). Ý tưởng về sự tự do như điều gì đó độc lập, do đó, đã được phát hiện như thể nền tảng cho mệnh lệnh nhất quyết, tức như một giả định tất yếu mà chúng ta tự nguyện áp đặt vào bản thân và vào các hữu thể duy lí khác trong chừng mực những hữu thể ấy cũng sở hữu một ý chí hay ý thức về quan hệ nhân quả nơi hành động của họ (tr.449, tr.51). Vì vậy, chúng ta chỉ có được sự tự do kiểu này khi chúng ta tạo ra các mệnh lệnh nhất quyết.<br />
<br />
Định hướng cho những sự phê phán mệnh lệnh nhất quyết của các triết gia sau Kant có thể được tóm gọn lại một cách đầy đủ nhất trong câu của Nietzsche “Mệnh lệnh nhất quyết toả mùi nghiệt ngã” (Nietzsche, 1887, p. 65). Nỗ lực của Kant nhằm đặt nền tảng cho mệnh lệnh nhất quyết bằng một ý niệm tích cực về tự do như điều gì độc lập đã thất bại, bởi (với các triết gia sau Kant-ND), tự do và mệnh lệnh nhất quyết đã bị định nghĩa thuộc các phạm vi có tính phản động như sự đàn áp hay sự ngăn chặn nhắm vào ảnh hưởng (tự nhiên) từ bên ngoài, cũng như nhắm vào khuynh hướng tình cảm và cảm xúc của con người. Sự phê phán kiểu này lên tới mức một tuyên bố cực đoan trong một xu hướng phê phán do Hegel và Schopenhauer khởi đầu nhắm vào mệnh lệnh nhất quyết. Hegel, trong khi nhìn nhận một cách có cảm tình đối với định nghĩa của Kant về sự tự do độc lập với ý chí, vẫn thấy sự lập thức luân lý của nó trong mệnh lệnh nhất quyết là có tính hình thức và trừu tượng, do đó, tất yếu sẽ ngăn chặn “mọi nội dung và sự cụ thể hoá”. Schopenhauer coi mình là kẻ tuyên án tử hình cho mệnh lệnh nhất quyết và quy luật đạo đức, và cùng với đó là toàn bộ nỗ lực đặt cơ sở cho triết học thực hành trên sự tự do của ý chí. Các tác phẩm gần đây về đức lý học của Kant nhìn chung đều chấp nhận những nghi ngờ này về cơ sở siêu hình học của mệnh lệnh nhất quyết và tập trung vào sự sử dụng nó như một công thức có tính chuẩn tắc để trắc nghiệm tính nhất quán và tính phổ quát nơi các châm ngôn về hành động (xem O'Neill, 1989)<br />
<br />
xem thêm <a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/01/quan-niem-cua-triet-hoc-kant-ve-hanh.html">hạnh phúc</a><br />
<br />
(Như Huy dịch từ "Một từ điển về Kant" [<span style="font-style: italic;">a Kant dictionary</span>], tác giả Howard Caygill, NXB Blackwell xuất bản 2000, mục từ <span style="font-style: italic;">Mệnh lệnh nhất quyết</span>, từ tr.99- tr.102)Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-13849047800124878832012-01-15T20:12:00.000-08:002012-01-16T07:57:32.573-08:00Quan niệm của triết học Kant về hạnh phúc<span style="font-weight:bold;">Hạnh phúc </span>(Hy Lạp: eudaimonia, Ý: felicitas, Đức: Gluckseligkeit, Anh: Hapiness) xem thêm TỰ TRỊ (TÍNH, SỰ) TỰ DO, THIỆN (CÁI, SỰ), THIỆN TỐI CAO (CÁI, SỰ), HY VỌNG, VUI SƯỚNG (SỰ)<br /><br />Trong tác phẩm <span style="font-style:italic;">Nicomachean Ethics</span>, Aristotle khám phá rằng “sự thiện chủ yếu” hay “mục đích cao nhất” của hành vi con người- tức “điều gì đó có tính tối hậu và viên mãn, là mục đích của hành động” (Aristotle, 1941, 1097b, 22)-chính là hạnh phúc. Nghiên cứu của ông về hạnh phúc đạt tới sự cân bằng đáng nể: hạnh phúc hoàn hảo bao hàm việc đem lại đời sống tĩnh lự, song không loại trừ các khía cạnh khác của cuộc sống thiện hảo như lòng can đảm, sự tự do và sự vui sướng (nt.,1178a-1179). Tuy nhiên, quan điểm cân bằng của Aristotle về hạnh phúc dần bị chuyển hóa bởi sự phân chia theo kiểu thuyết Plato giữa hạnh phúc và sự viên mãn của trí tuệ (mind) và linh hồn,- với lạc thú (pleasure) xác thịt. <br /><br />Trong tác phẩm của Aquinas, sự phân biệt này thể hiện dưới hình thức của kinh nghiệm khách quan về <span style="font-style:italic;">beatitudo</span>(hạnh phúc linh thánh) và kinh nghiệm chủ quan, ít được coi trọng hơn của <span style="font-style:italic;">eudaimonia</span> (Hạnh phúc trần tục). Sự phân biệt này về tổng thể vẫn được Descartes duy trì. Với ông này, hạnh phúc [thông thường](heur)” chỉ phụ thuộc vào các sự vật bên ngoài”, và điều này là đối lập với hạnh phúc linh thánh (<span style="font-style:italic;">béatitude</span>) bao hàm “một sự toại ý hoàn hảo của trí tuệ cùng sự thỏa mãn nội tâm” (thư gửi Elizabeth, 4 tháng 8 năm 1645, Descartes, 1981, tr.164). Kant bảo toàn sự phân biệt này trong một hình thức có hiệu chỉnh, ở đó, hạnh phúc khách quan sinh ra từ hành động tự trị (không phụ thuộc vào bất kì động lực nào-ND) và tự do, còn hạnh phúc chủ quan sinh ra từ các cảm xúc bên ngoài (heteronomous) đến từ cảm giác vui sướngvà hài lòng. Một sự đối lập giữa hạnh phúc và tự do chi phối trọn vẹn thảo luận của Kant về hạnh phúc. Nó xuất hiện rõ nhất trong cuốn SHHĐL (Siêu hình học về đức lý), nơi có sự phân biệt giữa “<span style="font-style:italic;">eidaimonism</span> (các nguyên tắc của hạnh phúc)” và “<span style="font-style:italic;">eleutheronomy</span>”(nguyên tắc tự do của sự tự ban bố luật lệ nội tại), với xác nhận kèm theo sự phân biệt này rằng” nếu các nguyên tắc của hạnh phúc được làm thành nguyên tắc cơ bản của hành động, kết quả sẽ là “euthanasia” (cái chết dễ dàng) cho mọi luân lý” (SHHĐL tr.378, tr.183). Sự vui sướng, thỏa mãn đến trước (là động lực cho-ND) nghĩa vụ hay cho sự tuân thủ theo luật lệ thì phụ thuộc vào cảm tính và là bộ phận của quy tắc tự nhiên, trong khi sự vui sướng thỏa mãn đến sau ( là kết quả của) nghĩa vụ mới đặt cơ sở trên sự tự do khả niệm (tự do thông qua suy lí, lý tính- tiên nghiệm và không phụ thuộc vào các luật lệ tự nhiên, duy nghiệm-ND) và mới là bộ phận của quy tắc đạo đức. Sự phân biệt giữa hai nghiên cứu về việc tuân thủ luật lệ đã sinh ra một số hệ quả-tức những gì xuất hiện khắp triết học thực hành của Kant.<br /><br />Sự đối lập giữa <span style="font-style:italic;">eudaimonia</span> và <span style="font-style:italic;">eleutheronomy</span> được phát triển thành một loạt hệ luận nhất quán. Hệ luận đầu tiên, như đã được đề cập, là sự phân biệt giữa các quy tắc luân lý và quy tắc tự nhiên; quy tắc tự nhiên là vương quốc của các quan hệ nhân quả, của xu hướng cảm tính (inclination) và của sự ngoại trị (SHHĐL tr. 216, tr.44). Các nguyên tắc đặt cơ sở trên hạnh phúc và tính ngoại trị đều thuộc thế giới vật chất, chủ quan, bất toàn. Chúng đối lập lại với các nguyên tắc đặt cơ sở trên sự tự do và tự trị, tức những gì có tính hình thức và phổ quát (CSSĐ tr.442, tr.46). Ý tưởng về sự thiện đồng nghĩa với hạnh phúc là một ý tưởng rất khó xác định. Lý do là có vô số cái thiện khác nhau tiềm tàng nơi ý tưởng ấy. Trong khi đó, ý tưởng về sự thiện đồng nghĩa với tự do thì rất tập trung và xác định được (PPNLPĐ [Phê Phán Năng Lực Phán Đoán] ss83). Nhu cầu tìm kiếm hạnh phúc ( thông qua việc thực hiện nghĩa vụ-ND) tác động đến ý chí một cách gián tiếp; nhà duy lạc thú thực hiện nghĩa vụ” chỉ bởi niềm hạnh phúc mà họ dự đoán trước”, trong khi nghĩa vụ đòi hỏi ý chí một cách trực tiếp, và không hướng tới bất kỳ cứu cánh nào ngoài bản thân nó (SHHĐL tr. 377, tr.183). Kết quả là, mệnh lệnh, nếu có liên quan tới nhu cầu kiếm tìm hạnh phúc sẽ biến thành những lời “mách nước khôn ngoan có tính giả thuyết” với các điều kiện như là: chỉ nên làm điều này hay điều kia thì sẽ có hạnh phúc hoặc không có hạnh phúc”. Trong khi đó, mệnh lệnh thuộc luật lệ của tự do là những đòi hỏi nhất thiết và không phụ thuộc vào bất kì điều kiện nào” (CSSĐ [ đặt cơ sở cho một môn siêu hình học đức lí] tr.146, tr.26). Kiểu lập luận đối lập này dẫn tới mệnh đề có tính áp đặt (repressive proposition) trong cuốn LSPQ [ Ý niệm về một lịch sử phổ quát với mục đích toàn hoàn vũ] rằng: nhân tính “không nên tham lam những sự hoàn hảo hay hạnh phúc nào khác hơn những gì họ đạt được bằng chính lý tính chứ không phải bằng bản năng (tr.19, tr.43)<br /><br />Tuy nhiên trong khi loại hạnh phúc khỏi bất kỳ vai trò nào có can hệ tới sự quyết định hành động của ý chí, Kant vẫn coi nó [hạnh phúc] như một phương diện quan trọng của cái thiện tối cao thuộc con người. Tại một chỗ trong cuốn PPLTTT [Phê phán lí tính thuần tuý), ông giả định rằng hạnh phúc sẽ tự động đến theo tự do: “Tôi không nói về hạnh phúc tối đa vì nó chỉ là kết quả đương nhiên của tự do” ( PPLTTT B 373). Tại đây cấu tạo cho phép sự tự do tối đa có thể có được đã được miêu tả như một Ý tưởng tất yếu cho sự tiến bộ của con người, tức là điều sẽ làm cho hạnh phúc xuất hiện; tuy nhiên, trong PPNLPĐ chính hạnh phúc lại là ý tưởng [ đơn thuần về một trạng thái-ND] mà con người muốn “ làm cho trạng thái ấy tương ứng hoàn toàn với Ý tưởng trong những điều kiện đơn thuần thường nghiệm”(ss83) *. Trong PPLTTT, Kant đã ngầm hòa giải các vế(terms) của sự đối lập này bằng những câu trả lời trước ba câu hỏi sinh ra từ mối quan tâm của lý tính:”1. Tôi có thể biết gì?, 2. Tôi phải làm gì?, 3.Tôi có thể hy vọng gì?” ( PPLTTT A 804/B 832). Hạnh phúc hiện lên trong những câu trả lời này, dù không phải là một trạng thái được nhắm tới cuối cùng, song cũng là điều gì đó xứng đáng. Sự thiện tối cao bao hàm cả dạng hạnh phúc được tưởng thưởng hay "luân lý”(morality) lẫn hạnh phúc thực tế (actual happiness), tức là nó sẽ không hoàn tất và đủ đầy nếu thiếu đi một trong hai yếu tố kể trên. Đặc biệt là với Kant, việc trục xuất hạnh phúc ra khỏi sự xác định hành vi luân lý chỉ là để đưa nó trở lại trong vai trò một bè đệm thiết yếu nơi cái thiện tối cao mà thôi.<br /><br /><br />Xem thêm: <a href="http://huybeo.blogspot.com/2012/01/menh-lenh-nhat-quyet-trong-triet-hoc.html">Mệnh lệnh nhất quyết </a><br /><br /><br />(Như Huy dịch từ "Một từ điển về Kant" [<span style="font-style:italic;">a Kant dictionary</span>], tác giả Howard Caygill, NXB Blackwell xuất bản 2000, mục từ <span style="font-style:italic;">Hạnh phúc</span>, từ tr.221- tr.223)<br /><br />------------------------------<br />*<span style="font-weight:bold;">Nguyên văn cả đoạn:</span><br /><br />“Khái niệm về hạnh phúc (Glueckseligkeit) không phải là một khái niệm được con người rút ra từ các bản năng của mình, và như thế là rút ra từ tính thú vật trong bản thân con người, mà là Ý tưởng đơn thuần về một trạng thái mà con người muốn làm cho trạng thái ấy tương ứng hoàn toàn với Ý tưởng trong những điều kiện đơn thuần thường nghiệm ( Là điều không thể thự hiện được). Con người phác họa ra Ý tưởng này cho chính mình và phác họa bằng nhiều cách khác nhau thông qua giác tính trong sự kết hợp chặt chẽ với trí tưởng tượng và các giác quan; đồng thời cũng thường thay đổi luôn khiến cho Tự nhiên, giả sử giả sử có hoàn toàn phục tùng ý thích tùy tiện của con người đi nữa, cũng tuyệt nhiên không thể có được một quy luật chắc chắn, phổ biến nhất định để hài hòa với khái niệm luôn chao đảo này, tức, với mục đích mà con người tùy tiện đặt ra cho chính mình.(Tr. 465, <span style="font-style:italic;">Phê phán năng lực phán đoán , Mỹ học và mục đích luận</span>, Bùi Văn Nam Sơn Dịch, NXB Tri Thức, 2006.Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-40049817492795330152012-01-12T02:45:00.000-08:002012-01-12T02:47:52.633-08:00Tựa vòng cánh cối xay còn quay ( lời việt ca khúc: The windmill of your mind)<span style="font-style:italic;">(bản thu đặc biệt để tưởng nhớ chú Chu Trung Can ( tức dịch giả Chu Lan Đình)</span><br /><br /><span style="font-weight:bold;">Lời Việt:</span> Như Huy<br /><span style="font-weight:bold;">Người hát: </span>Như Huy<br /><span style="font-weight:bold;">Đệm piano:</span> Nhạc sĩ Đức Trí<br /><br /><iframe width="560" height="315" src="http://www.youtube.com/embed/wqYTYFwB_KE" frameborder="0" allowfullscreen></iframe><br /><br /><br />Quay, <br />Tựa một vòng tròn chầm chậm quay, <br />Tựa một chiếc bánh xe tròn xoay<br />Tựa một guồng sợi vàng rực tơ êm <br />Dù tận kiếp vẫn chưa ngừng quay<br />Tựa giọt sương xoay nhẹ đầu non xa <br />Tựa vành sáng những chiếc dù hoa<br />Tựa nhịp nôi êm đềm tuổi ngây thơ <br />Tròn trịa giống dáng trăng ngày xưa<br />Tựa một kim giây đồng hồ vô tư<br />Đều đều đếm tháng năm dần qua<br />Tựa giọt lệ vẫn thầm lặng nghiêng rơi<br />Là quả đất có em và tôi<br />Tựa vòng cánh cối xay còn quay <br />Tận vùng ký ức xa tầm tay<br /><br /><br />Tựa hầm mộ đưa người vào mê cung <br />Một lần lỡ bước không đường ra<br />Hầm mộ sâu trong lòng đồng hoang vu<br />Mặt trời vĩnh viễn chưa hề soi <br />Tựa vòng quay cánh cửa vào cơn mơ <br />Chầm chậm mãi mãi không ngừng xoay<br />Tựa hồn nhiên cánh diều tuổi thơ ngây<br />Còn liệng mãi tít cao trời mây <br />Tựa một kim giây đồng hồ vô tư<br />Đều đều đếm tháng năm dần qua <br />Tựa giọt lệ vẫn thầm lặng nghiêng rơi<br />Là quả đất có em và tôi <br />Tựa vòng cánh cối xay còn quay <br />Tận vùng ký ức xa tầm tay<br /><br />Lời chợt vang lên từ nguồn tâm tư<br />Thoảng nhẹ bên tai tựa cơn gió <br />Mùa hè xưa qua rồi còn nuối tiếc <br />Lời tình xưa vẫn còn tha thiết <br />Người tình xưa vẫn còn dựa vai nhau <br />Vẫn bước tiếp những dấu chân ngày xưa <br />Lòng bàn tay gõ nhịp vào hư vô<br />Tựa nhịp trống tiễn đưa mùa thu<br />Thềm nhà xưa vẫn như đợi ai <br />Và rời rạc lời bài hát cũ<br />Còn lại đây bao khuôn mặt quen thân<br />Mà tuổi tên đã vùi trí nhớ<br />Ngày mình nghe cuộc đời chợt xa xôi<br />Ngày mình biết tháng năm dần trôi <br />Biết lá thu rơi vàng trên tóc rối <br />Biết nỗi đau có bao giờ nguôi<br /><br />Tựa một vòng tròn chầm chậm quay, <br />Tựa một chiếc bánh xe tròn xoay<br />Tựa một guồng sợi vàng rực tơ êm <br />Dù tận kiếp vẫn chưa ngừng quay<br />Tựa hình bóng cũ đang chìm khuất<br />Tựa vòng cánh cối xay còn quay <br />Tận vùng ký ức xa tầm tay<br /><br /><br />Lời Việt © Như Huy 2011Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-2160968665261135179.post-43213973803450646492012-01-10T00:20:00.000-08:002012-01-10T00:23:08.881-08:00Nhớ chú Chu Trung Can<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/-8eblCnKBLAI/Twv1MYj0wFI/AAAAAAAABfM/4Auhj4H0jvk/s1600/181756_10150098690842264_668022263_5931158_6629430_n.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 238px;" src="http://3.bp.blogspot.com/-8eblCnKBLAI/Twv1MYj0wFI/AAAAAAAABfM/4Auhj4H0jvk/s320/181756_10150098690842264_668022263_5931158_6629430_n.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5695915746840068178" /></a><br /><span style="font-style:italic;">Chụp cùng chú Chu Trung Can tại nhà của Lê Quảng Hà</span><br /><br /><br />Cũng không nhớ rõ lắm, hình như tôi quen chú Chu Trung Can qua bác An Chi thì phải. Gọi là quen qua vậy thôi, nhưng thật ra chúng tôi cùng biết nhau trên Facebook. Tôi chỉ nhớ có lần chú Can nhắn vào inbox của tôi rằng chú vừa vào Sài Gòn, muốn rủ tôi đi coffe, mà lần đó tôi lại đang ở nước ngoài. Tuy nhiên tôi đã được gặp chú ngay sau đó, khi tôi ra Hà Nội và tìm tới chú<br /> <br />Theo tôi, chú Can là một con người rất hóm hỉnh, sự hóm hỉnh của một con người đã đủ từng trải và tri thức để hiểu rằng nếu đã là sự thật -một sự thật đúng nghĩa là sự thật, và do đó luôn là một dị bản của tình yêu thương và sự thấu hiểu- thì nó ( sự thật ấy) sẽ phải luôn-biết-mỉm-cười.<br /> <br />Chú Can, với tôi còn là một quý ông ( gentleman) đúng nghĩa- theo nghĩa một con người luôn muốn-thấy-mình-thanh-lịch. Tôi muốn dùng chữ Muốn-thấy-mình-thanh-lịch, chứ không phải chữ thanh lịch thông thường bởi, theo tôi, trên hậu cảnh của một Hà Nội, của một Việt Nam đang ở thời kì xuống cấp về mọi mặt –sự thanh lịch mà tôi cảm thấy từ chú Can đã không chỉ còn là một sự thanh lịch theo kiểu bề mặt - mà là một sự thanh lịch theo nghĩa một thái độ, một hành vi phản ứng, một tỏ bày hơn là một điều gì đó vô thức. Hay nói đúng hơn, sự thanh lịch tôi cảm thấy ở chú Can chính là một điều gì đó ( dĩ nhiên là luôn bản năng, tự nhiên song), đã được ý thức nhận diện và kiên quyết duy trì thành một thái-độ-sống. Chính vì thế phía sau sự thanh lịch kiểu này của chú, tôi tin rằng chúng ta luôn tìm thấy một chiều-sâu-hồn-hậu của tình người, và do đó, nó khác hoàn toàn với mọi kiểu thanh lịch bề mặt, mà dị bản cực đoan của chúng chỉ là các thái độ khách sáo, mầu mè rườm rà. <br /> <br />Chính ở góc độ này, tôi thấy ở chú có phảng phất đôi nét gì đó với bác Cao Xuân Hạo, cũng là một người thầy của tôi. Và tôi đã không hề ngạc nhiên khi nghe chú Can kể trước đây chú và bác Hạo cũng chơi với nhau và rất quý nhau, vào thời bác Hạo còn sống ở Hà Nội.<br /> <br />Cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi diễn ra trong vòng…20 tiếng, chia làm ba đợt. Đợt đầu là coffe sáng tại Viet Art Center, đợt hai là rượu buổi chiều tại nhà hoạ sĩ Lê Quảng Hà, và đợt ba là cữ rượu đêm tại chính quán Bar của hoạ sĩ Lê Quảng Hà – Factory, với món gà nướng do chủ quán đãi. Có bao-nhiêu-những-chuyện-gì để mà có thể nói và ngồi bên nhau lâu đến thế? Thú thực là chẳng có chuyện gì cả. Chỉ toàn chuyện đùa mà thôi. Thật ra, ngồi bên những người như chú Can, như đã có lần tôi nghĩ về việc ở bên thầy Hạo, hay bên bác An Chi, v.v., những người trẻ tuổi hơn như chúng tôi dường như cảm thấy một sự hạnh phúc lớn lao của việc được chứng kiến những con người mà sau khi họ trải qua cả một chặng dài trong những thời kì <span style="font-style:italic;">“Chỉ toàn những lời nói thô lỗ vì ngu dốt/Những vầng trán phẳng lì vì không thể cảm thụ/Có kẻ đang cười đâu đó - thì chỉ vì chưa nhận được tin dữ mà thôi”</span> (“Gửi những kẻ sinh sau”, thơ Bertolt Brecht, Như Huy dịch) – lương thức và lương tâm của họ vẫn không hề suy suyển. Chính ở đây, họ đã như thể trở thành những tấm gương cho chúng tôi – khi chúng tôi chợt nhìn lại thời kì mình đang sống và giật mình thấy ra rằng, hoá ra cũng chẳng hơn gì thời kì mà họ từng đã trải qua.<br /> <br />Sau lần ấy, với tôi, chú Can đã như một người thân, người anh, người chú. Mỗi lần ra Hà Nội,tôi đều đến chơi với chú.<br /> <br />Với tôi, chú Can đã thành một địa chỉ, một chốn-về.<br /> <br />Lần cuối cùng tôi gặp chú Can là vào trước ngày chú mất một ngày. Tôi đến thăm chú với em Lang Minh. Cũng như mọi khi,câu chuyện của chú là về sách, về tri thức, về ngôn ngữ, về dịch thuật, một câu chuyện luôn có kèm theo những nụ-cười-nheo-mắt quen thuộc không lẫn đi đâu của chú. Hôm đó chú có khoe rằng hiện chú đang học tiếng Tây Ban Nha, và doạ tôi rằng chỉ tới cuối năm là chú có thể đọc Wittgenstein bằng tiếng Tây Ban Nha^^<br /> <br />Câu chuyện giữa chú và chúng tôi trong buổi nói chuyện cuối cùng này dẫn tới cách dịch và hiểu chữ Participation. Thường chúng ta dịch và hiểu chữ này như là sự tham dự/ tham gia. Tuy nhiên theo chú dịch/hiểu như vậy chưa hoàn toàn đến đáy nghĩa, vì tham dự và tham gia thường được hiểu theo nghĩa phải có gì đó trước rồi, thì người ta mới tham dự và tham gia vào được. Participation- tiếng Anh, với từ gốc là (partake of/in) theo chú phải hiểu như là một sự dự phần vào một cái gì đó mà trước đó chưa có, và chỉ sau khi mọi người cùng dự phần vào, thì cái gì đó mới hình thành. Chú cho biết có một chữ khác trong <span style="font-style:italic;">Từ Điển và Danh Từ Triết Học</span> của Trần Văn Hiến Minh( Tủ-Sách-Ra-Khơi, Saigon 1966), mà theo chú đã dịch/hiểu chữ participation tốt hơn – đó là chữ “thông phần”<br /> <br />…<br /> <br />Chỉ ngay hôm sau cuộc nói chuyện này, vào lúc 6 giờ chiều mùng 8 tháng 1, 2012, tôi bàng hoàng nhận được cú điện thoại của em Lang Minh, một người em gần gũi nhất với chú trong chúng tôi, cho biết trước đó một giờ chú đã đột ngột ra đi<br /> <br />…<br /> <br />Mấy hôm nay, tôi cứ nghĩ mãi, câu chuyện cuối cùng giữa chúng tôi về chữ participation có phải là một dạng điềm báo trước? Phải chăng giờ đây chú Chu Trung Can yêu quý của chúng tôi cũng đã dự phần vào một thế giới mà ở đó trước chú, những người khác như bác Cao Xuân Hạo chẳng hạn, cũng đã dự phần ( theo nghĩa cùng nhau, bằng sự dự phần của mỗi người-, tạo nên thế giới ấy) ? Một thế giới dành riêng cho các quý ông, cho những con-người-biết-cười, một thế giới bình yên, xứng đáng và đẹp đẽ hơn nhiều cái thế giới dưới này của chúng tôi.<br /> <br /> <br /> <br /> <br />Để kết vài dòng nhỏ bé này, tôi xin phép chú Can được đăng lại một note của chú ( nguồn: https://www.facebook.com/note.php?note_id=127648737287115)<br /> <br />“<br />….<br /> <br /><span style="font-weight:bold;">Bằng vào lương thức thông thường, ta thấy mình là một sinh thể tuyệt vời biết mấy, và cũng với lương thức ấy, ta thấy mình nhỏ bé và với số lượng ít ỏi biết nhường nào so với cái vũ trụ – cả vĩ mô lẫm vi mô – mà ta sống trong đó. Cô đơn đến vậy sao? Không hề! Chúng ta hẳn phải có vô số bạn bè khắp trong vũ trụ bao la. Vì nếu có một đấng sáng tạo như Chúa hay các chư thần tối cao của nhiều tôn giáo khác, hay chính vũ trụ tự thân đã tạo nên vũ trụ này thì kẻ toàn năng ấy không thể nào “lãng phí không gian” đến như vậy được. Chỉ là chúng ta chưa có cơ may gặp được bạn bè, trong đó có thể có những bạn bè ngay cạnh ta thôi, đang vui vầy khắp nẻo đường vũ trụ, hoặc giả vũ trụ chỉ là cái gì đó thật bé nhỏ, và ta chính là vũ trụ, hoặc giả chúng ta hiện chỉ là những quả trứng đã giao hoan với tinh trùng đang còn nằm trong bào thai kín bưng để đợi một ngày kia cất tiếng chào đới, có thể đó là ngày mà chúng ta “chết” đi, vui vầy cùng bạn hữu, ngày chào đời kinh sợ biết bao mà cũng đẹp biết bao”<span style="font-style:italic;"></span></span><br /> <br />…<br /> <br /> <br />Như Huy, 10.1.2012Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02340007840963374695noreply@blogger.com2