Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011

Benedict Anderson - Quốc gia/dân tộc là gì? *

Như Huy dịch

Vài lời người dịch:

Imagined Communities là một cuốn sách vô cùng quan trọng của Benedict Anderson. Trong nghiên cứu về chính trị học, xã hội học, nó có vai trò mở đường khi trọng tâm nghiên cứu của nó chính là về nguồn gốc và sự bành trướng của cái gọi là chủ nghĩa quốc gia/dân tộc. Trong cuốn sách, Benedict Anderson đã chứng minh rõ, khái niệm về quốc gia/dân tộc, tức một khái niệm mà theo ông “đã tạo điều kiện cho việc, trên hai thế kỷ qua, bao nhiêu triệu người sẵn sàng giết và sẵn sàng bị giết “, không phải là môt khái niệm có tính cố hữu, mà là một “tạo vật văn hóa”, có nguồn gốc từ sự mất dần đặc quyền được tiếp cận với các ngôn ngữ kinh thánh (ví dụ tiếng latin), các phong trào nhằm xóa bỏ ý tưởng về thần quyền và vương quyền, cũng như sự xuất hiện của các tờ báo in dưới hệ thống của chủ nghĩa tư bản. Có nghĩa là, theo ông, cái gọi là quốc gia/dân tộc, không phải là điều gì có sẵn và có tính thực hữu, mà chỉ là một sự tưởng tượng- hay dùng thuật ngữ của ông: “ một cộng đồng được tưởng tượng mà ra”.

Lẽ dĩ nhiên, từ khi cuốn sách này lần đầu tiên được xuất hiện vào năm 1983, đến này đã có vô số phản ứng với nó, cả đồng tình lẫn chỉ trích- ví dụ có một số tác giả đã chỉ trích sự đơn giản hóa của Benedict Anderson với tiến trình qua đó các chủ nghĩa quốc gia/dân tộc thuộc thế giới thứ ba được hình thành cũng như chưa định vị rõ vai trò của các nhà nước thực dân trong quá trình hình thành các chủ nghĩa quốc gia/dân tộc. Và có lẽ là sẽ còn nhiều chỉ trích khác nữa, nhất là trong thời đại ngày nay, khi các biến cố của thế giới đã liên tiếp xảy ra, và qua đó, chiếu các ánh sáng mới để nhìn nhận về sự phát triển cũng như hình thành của các chủ nghĩa quốc gia/dân tộc trong thời đại mới. Tuy nhiên, vai trò của cuốn sách này vẫn rất lớn lao, và thật tiếc rằng, theo như chỗ tôi biết ( có thể tôi sai), có không nhiều các bạn học hay nghiên cứu về xã hội học, hay chính trị học, văn hóa, hay nhất là các nghệ sỹ đương đại Việt Nam biết tới, hay từng đọc cuốn sách này.

Đây không phải là một cuốn sách dễ đọc (và lẽ dĩ nhiên dễ dịch), không chỉ bởi các thuật ngữ mới mẻ của nó, hay cách dụng từ ngữ phong phú từ vô số nguồn từ vựng, xã hội học, triết học, tôn giáo, v.v., của tác giả, mà còn bởi các suy tư đầy tính khai phá và mở đường của ông, thách thức các quan niệm hay tiên kiến cũ xưa, mà theo tôi, nhất là của người Việt Nam chúng ta, nơi mà khái niệm quốc gia/dân tộc hình như được đưa tới một tầm mức thiêng liêng như lâu nay. Tôi đọc cuốn này đã lâu, và dù nhiều lúc đã nảy ra ý định dịch một, hai chương của cuốn sách, nhưng sau đó đều cảm thấy là không thể - vừa bởi việc không có đủ thời gian, vừa bởi việc tự thấy bản thân là một người ngoại đạo với lĩnh vực này, và vì thế, sẽ khó có thẩm quyền trong việc dịch cuốn sách.

Lý do để tôi bắt tay vào dịch đoạn dẫn luận này chỉ bởi trong vài ngày qua, đã có các sự kiện xảy ra làm tôi chợt nghĩ về chủ nghĩa quốc gia/dân tộc tại Việt Nam, và bởi thế, tôi đã cố gắng dịch bản dẫn luận của cuốn sách của Benedict Anderson, chỉ với mục đích ( nếu có thể) tạo cảm hứng cho các bạn bè, trước hết là nghệ sĩ, sau đến là các bạn bè trí thức ở các lĩnh vực khác chưa biết tới cuốn sách này – tìm đọc, và nếu được, dịch (ít ra là một vài chương) của cuốn sách.

Có lẽ không cần phải nói rằng, bởi ngoại đạo, và phải thu xếp thời gian dịch không nhiều, dĩ nhiên bản dịch này sẽ có rất nhiều lỗi (cả về thuật ngữ, cả về cách hiểu). Mong các bạn có đọc bản dịch thông cảm và bỏ quá cho.





N.H.

------



Có lẽ không thu hút được nhiều chú ý, song quả thật có một sự chuyển hóa trong lịch sử của chủ nghĩa Marx và các phong trào Marxist đã xảy ra trước mắt chúng ta. Các dấu hiệu rõ rệt nhất của cuộc chuyển hóa này chính là các cuộc chiến gần đây giữa Việt Nam, Cam-pu-chia và Trung Hoa. Nói các cuộc chiến tranh này có ý nghĩa lịch sử ở tầm mức thế giới bởi đây là lần đầu tiên giữa các chế độ mà sự độc lập và tính khả tín cách mạng của chúng là không thể chối cãi đã nổ ra các cuộc chiến, và bởi không một kẻ tham chiến nào trong các nước này thèm nỗ lực biện minh cho sự đổ máu bằng các quan điểm lý thuyết Marxist tường minh. Trong khi người ta vẫn có thể diễn giải các cuộc xung đột biên giới giữa Liên Xô (cũ) và Trung Hoa vào năm 1969, và sự can thiệp của quân đội Sô-viết vào Đức (1953), vào Hung ( 1956), vào Tiệp khắc (1968), vào Afganistan (1980) bằng các thuật ngữ như (tùy theo khẩu vị mỗi người)- chủ nghĩa đế quốc kiểu xã hội chủ nghĩa (social imperialism), hay “chủ nghĩa xã hội phòng vệ” (defending socialism), v.v., tôi nghĩ sẽ không một ai nghiêm túc tin rằng các từ vựng như vậy có thể phù hợp để mô tả cho những gì xẩy ra tại Đông Dương.

Nếu cuộc xâm lược và sau đó là chiếm cứ Cam-pu-chia của Việt Nam vào tháng 12 năm 1978 và vào tháng Giêng năm 1979 đã cho thấy lần đầu tiên một cuộc chiến tranh quy ước cỡ lớn đã nổ ra giữa một chế độ Marxist chống lại một chế độ Marxist khác(1), cuộc tấn công của Trung Hoa vào Việt Nam vào tháng 2 năm 1979 đã nhanh chóng xác nhận tiền lệ này. Chỉ những người giàu tin tưởng nhất mới dám cược rằng trong những năm tháng đang tàn tạ của thế kỷ này, mỗi sự bùng nổ chiến tranh giữa các kẻ thù ở tầm khu vực sẽ không tìm được sự hậu thuẫn, hay thậm chí sự tham gia tất yếu từ Sô-Viết hay Trung Hoa – chưa kể từ các quốc gia xã hội chủ nghĩa nhỏ hơn? Ai có thể dám chắc rằng giữa Nam Tư và Albani vào một ngày đẹp trời nào đó sẽ không nổ ra chiến tranh. Các nhóm khác nhau tìm cách ly khai khỏi Hồng Quân từ các trại lính ở Đông Âu nên tự nhắc nhớ bản thân về sự có mặt rộng khắp của quân đội ấy, từ năm 1945, đã giúp ngăn ngừa các cuộc xung đột quân sự chính giữa các chế độ Marxist trong cùng khu vực ra sao.

Những sự suy xét như vậy sẽ giúp làm rõ sự thật rằng, từ thế chiến II đến nay, mọi cuộc cách mạng đạt tới thành công đều phải tự định nghĩa bản thân trong phạm trù có tính quốc gia/dân tộc, ví dụ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, hay Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, v.v., và v.v., và khi làm thế, chúng định vị chắc chắn bản thân trong một không gian xã hội và lãnh thổ kế thừa từ các quá khứ tiền cách mạng. Trái ngược lại, việc Liên bang Sô-viết có chung một đặc trưng hiếm hoi với Vương quốc liên hiệp Anh và Bắc Ai-len (United Kingdom of Great Britain and Northen Ireland) ở việc bác bỏ quốc gia tính (thể hiện ngay trong cái tên gọi liên bang/liên hiệp) đã cho thấy rằng những kẻ thừa kế của các nhà nước (states) tiền quốc gia thuộc thế kỷ 19 lại chính là các tiền bối cho một trật tự theo kiểu chủ nghĩa quốc tế của thế kỷ 21 (2)

Eric Hobsbawm đã hoàn toàn chính xác khi nhấn mạnh rằng các phong trào và nhà nước Marxist đã dần trở nên có tính quốc gia/dân tộc không chỉ trong hình thức mà trong cả bản thể của nó, có nghĩa là đã trở thành chủ nghĩa dân tộc. Và trong hiện tại, không có gì chắc chắn rằng rằng xu hướng này sẽ không tiếp diễn, cũng như việc nó chỉ hạn chế bản thân trong khối xã hội chủ nghĩa.(3). Hầu như mỗi năm, Liên hợp quốc đều tuyên bố công nhận các thành viên mới. Và rất nhiều “quốc gia/dân tộc cổ xưa” từng được coi là vô cùng có tính cố kết, giờ đây đã phải đối mặt với các thách thức nơi các chủ nghĩa quốc gia/dân tộc ngoài lề (sub-nationalism) khởi lên từ trong chính phạm vi biên giới của họ, tức các chủ nghĩa quốc gia/dân tộc đang, một cách tự nhiên, mơ tới việc một ngày đẹp trời có thể hủy bỏ tính chất sub (ngoài lề) của chúng. Thực tại ở đây vô cùng đơn giản, “sự chấm dứt của kỷ nguyên chủ nghĩa quốc gia/dân tộc”, điều từng được tiên đoán từ lâu, giờ đây đang tự chứng minh sự sai lầm của nó. Thật ra, yếu tính quốc gia/dân tộc [nation-ness] là một giá trị chính đáng một cách phổ quát trong đời sống chính trị của thời đại chúng ta.

Song nếu như các thực kiện đang xảy ra rành rành trước mắt chúng ta, sự tường giải về chúng vẫn là điều gì chưa đi tới được thống nhất. Quốc gia/dân tộc| quốc gia tính/dân tộc tính| Chủ nghĩa quốc gia/dân tộc [nation/nationality/nationalism] – tất cả đều đã chứng minh một cách hùng hồn rằng việc định nghĩa chúng là vô cùng khó khăn, chứ đừng nói là có thể phân tích được chúng. Trái nghịch với ảnh hưởng vô tiền khoáng hậu mà các chủ nghĩa quốc gia/dân tộc đang tác động lên thế giới hiện đại, lý thuyết khả tín (plausible theory) về chủ nghĩa ấy cho đến nay vẫn quá sơ sài. Hugh Seton-Watson, tác giả của một tác phẩm tiếng Anh hay nhất và dễ hiểu nhất về chủ nghĩa quốc gia/dân tộc, và là người kế thừa một truyền thống lớn lao của ngành sử ký và khoa học xã hội theo xu hướng tự do đã quan sát một cách buồn bã: “Vì lẽ đó, tôi đã buộc phải đi tới kết luận rằng không thể lập ra một “định nghĩa khoa học” nào cho quốc gia/dân tộc; Ấy thế nhưng, hiện tượng này đã và vẫn đang hiện hữu” (4) Tom Nairn, tác giả của cuốn sách có tính mở đường mang tên “ sự tan rã của nước Anh” (The break-up of Britain), và là người kế thừa truyền thống có đôi chút ít ảnh hưởng hơn của ngành sử ký và khoa học xã hội theo lối Marxist, đã thẳng thắn lưu ý rằng:”Lý thuyết về chủ nghĩa dân tộc/quốc gia thể hiện sự thất bại lịch sử vĩ đại của chủ nghĩa Marx. (5). Song thậm chí lời thú nhận này cũng có gì đó lạc lối, trong chừng mực qua đó, nó có thể hàm ngụ về hậu quả đáng tiếc của một sự truy tầm lâu dài và có tính tự ý thức nhắm tới một sự sáng rõ về lý thuyết. Có lẽ sẽ chính xác nhiều hơn khi nói rằng chủ nghĩa quốc gia/dân tộc đã tự chứng minh bản thân là một dị vật không thể lắp vừa được với lý thuyết Marxist và, chính xác là bởi lý do này, nó đã bị bỏ qua toàn bộ chứ chưa hề được đương đầu. Có cách nào khác hơn để lý giải sự thất bại của chính Marx trong việc giải thích tính từ quan trọng trong sự lập thức đáng nhớ của ông về năm 1848:” Giai cấp vô sản từ mỗi đất nước, dĩ nhiên, trước hết, phải giải quyết các vấn đề với giai cấp tư sản của chính họ”. Có cách nào khác hơn để giải thích cách sử dụng, mặc nhiên qua hàng thế kỷ, khái niệm “ giai cấp tư sản dân tộc/quốc gia” mà lại chưa hề có bất kỳ nỗ lực nghiêm túc nào để biện giải một cách lý thuyết cho sự thích ứng của tính từ dân tộc/quốc gia (national) đó? Tại sao sự phân chia “giai cấp tư sản “ [ra khỏi liên kết “Giai cấp tư sản dân tộc/quốc gia”]– như một thế giới- một giai cấp trong chừng mực nó được định nghĩa như điều gì thuộc phạm vi các mối quan hệ sản xuất – lại có ý nghĩa quan trọng về lý thuyết?

Mục đích của cuốn sách này là đưa ra một vài đề nghị có tính thử nghiệm cho một diễn giải sâu xa hơn về cái “dị vật” chủ nghĩa quốc gia/dân tộc. Theo như tôi hiểu, về chủ đề này, cả lý thuyết tự do và lý thuyết Marxist đều trở nên tàn úa trong một nỗ lực muộn màng theo kiểu Ptolemaeus [Claudius Ptolemaeus là một nhà thiên văn học cổ đại, đưa ra lý thuyết về việc mặt trời xoay quanh trái đất. Lý thuyết ấy sau này đã bị Copernicus bác bỏ, khi ông này đưa ra cái gọi là cuộc cách mạng Copernicus, ở đó, không phải mặt trời xoay quanh trái đất, mà là trái đất xoay quanh mặt trời –ND] nhằm ‘bảo vệ hiện tượng” ; và do đó, ở đây, rất gấp rút, cần phải có một sự tái định hướng theo tinh thần Copernicus. Khởi điểm nghiên cứu của tôi là việc coi quốc gia/dân tộc tính [nationality], hay như một số người thích gọi là yếu tính quốc gia/dân tộc ( nation-ness), cũng như chủ nghĩa quốc gia/dân tộc chỉ là các tạo vật văn hóa [cultural artifacts] theo một kiểu cụ thể nào đó. Để hiểu chúng một cách đúng đắn, chúng ta cần xem xét cẩn trọng việc các tạo vật văn hóa này làm cách nào đã trở nên một dạng tồn tại lịch sử, cũng như nghĩa của chúng đã thay đổi ra sao qua thời gian, và tại sao ngày nay chúng lại đòi hỏi có được tính hợp pháp về mặt tình cảm sâu sắc đến thế.Tôi sẽ tìm cách biện luận rằng sự chế tạo ra các tạo vật này vào thời điểm kết thúc của thế kỷ 18 (7) chính là kết tinh ngẫu nhiên của một “sự giao cắt” phức tạp giữa các lực lịch sử biệt lập với nhau; và rằng, một khi đã được chế tạo ra, chúng đã trở nên “modular” ( mảnh ghép) có khả năng đem cấy ghép, theo vô số các cấp độ tự ý thức khác nhau, vào vô số lãnh địa xã hội lớn lao, để hợp trộn và được hợp trộn một cách tương ứng với vô số các tập hợp ý hệ và chính trị khác nhau. Tôi cũng sẽ nỗ lực cho thấy lý do tại sao mà các tạo vật văn hóa cụ thể này lại đã khuấy động lên các hiện tượng kèm theo (attachments) sâu xa như thế

Trước khi đi cụ thể vào những câu hỏi được đưa ra ở trên, có lẽ cũng nên xem xét vắn tắt về khái niệm “quốc gia/dân tộc” và đưa ra một định nghĩa để làm việc. Các lý thuyết gia của chủ nghĩa quốc gia/dân tộc thường xuyên cảm thấy thắc mắc, chưa nói đến việc bị khuấy động, bởi ba nghịch lý sau: 1/ tính hiện đại khách quan của các quốc gia/dân tộc trong con mắt của các sử gia lại đối lập với tính cổ xưa chủ quan trong con mắt của các nhà theo chủ nghĩa quốc gia/dân tộc; 2/ tính phổ quát về mặt hình thức của quốc gia/dân tộc tính, như một khái niệm văn hóa-xã hội [ trong thế giới hiện đại mọi người có thể, nên, và cần “sở hữu” một quốc gia tính, y như việc anh ta hoặc cô ta sở hữu một “giống”] lại đối lập với tính cụ thể không thể chối cãi nơi các tuyên bố cụ thể của nó- ví dụ như là; dứt khoát quốc gia/dân tộc tính “Hy lạp” phải là sui generis ( duy nhất); 3/ quyền lực “chính trị” của chủ nghĩa quốc gia/dân tộc lại đối lập với sự nghèo nàn, và thậm chí thiếu mạch lạc về triết học của nó. Nói cách khác, khác với mọi chủ nghĩa khác, chủ nghĩa quốc gia/dân tộc chưa bao giờ sản tạo được các nhà tư tưởng vĩ đại cho nó; không có các Hobbeses, không có các Tocquevilles, không có các Marx hay các Webers. Sự “trống rỗng” này dễ dàng sinh ra, trong phạm vi các công dân toàn cầu hay các trí thức đa ngôn ngữ, một thái độ coi thường nó. Giống như Gertrude Stein từng nói về vùng Oakland (vào lúc sau 30 năm sống ở Paris, bà quay lại quê nhà-ND), người ta có thể nhanh chóng kết luận rằng “chả còn gì ở đó hết” (there is no there there). Chính bởi đặc tính này mà thậm chí một sinh viên tốt bụng nhất nghiên cứu về chủ nghĩa quốc gia/dân tộc như Tom Nairn cũng đã không thể không viết rằng “chủ nghĩa quốc gia/dân tộc là một bệnh tật của lịch sử của thời hiện đại, và cũng tất yếu như bệnh “thần kinh” của con người, với rất nhiều sự mơ hồ tương đồng gắn với nó [ có nghĩa rằng trong chủ nghĩa quốc gia/dân tộc tồn tại một khả năng sẵn có y hệt như khả năng sẵn có trong con người, bỗng một ngày chuyển biến thành tình trạng thần kinh] có cội rễ trong tình huống tiến thoái lưỡng nan của sự vô vọng áp đặt lên hầu khắp thế giới [tương tự với bệnh nhi tính (infantilism) cho xã hội] và nhìn chung là không thể chữa trị”. (8)

Một phần của sự khó khăn ở đây là việc người ta đã luôn có xu hướng, một cách vô thức, tôn sự hiện hữu của chủ nghĩa quốc gia/dân tộc lên tầm mức trao cho nó một chữ cái đầu tiên được viết hoa [điều này khác với việc ai đó có lẽ sẽ cho chữ Trọng tuổi (Age) một chữ cái đầu tiên viết hoa], và rồi phân loại “nó” như một ý hệ. (lưu ý rằng khi ai đó lớn tuổi, thì chữ Trọng tuổi ở đây, nếu được viết hoa chữ cái đầu tiên-thì chỉ có ý nghĩa là một cách biểu lộ có tính phân tích mà thôi). Tôi nghĩ rằng mọi việc sẽ dễ dàng hơn khi ta ứng xử với chủ nghĩa quốc gia/dân tộc như thể nó thuộc lãnh địa của “họ hàng” và “tôn giáo” chứ không thuộc “thuyết tự do” hay ‘chủ nghĩa phát xít”

Theo một tinh thần nhân học, tôi đưa ra định nghĩa sau đây về quốc gia/dân tộc: quốc gia/dân tộc là một cộng đồng chính trị được tưởng tượng mà thành – và nó được tưởng tượng ra như thể điều gì, về bản chất, vừa có tính giới hạn (trong một phạm vi), vừa có tính chủ quyền một cách cố hữu

Nói nó được tưởng tượng ra là bởi thậm chí các thành viên của một quốc gia/dân tộc nhỏ bé nhất cũng sẽ không bao giờ biết được hầu hết các thành viên-kẻ chung nhóm với mình, gặp gỡ họ, hay thậm chí nghe về họ. Thế nhưng trong tâm thức của mỗi thành viên ấy đều có hình ảnh về sự chung đụng giữa họ với nhau (9). Renan có nhắc tới hành vi tưởng tượng này theo một lối châm biếm lịch sự của ông khi ông viết rằng “ Or l’Essence d’une nation est que tous les individus aient beaucoup de choses en commun, et aussi que tous les oublié bien des choses” (10) (tiếng pháp trong nguyên bản: “Mà bản chất của một nhà nước là tất cả các cá nhân có nhiều điểm chung, và cũng phải biết quên chung nhiều điều”-ND). Với một sự mạnh mẽ nhất định, Gellner tạo ra một điểm có thể so sánh với Renan khi ông quả quyết rằng chủ nghĩa quốc gia/dân tộc không phải là sự đánh thức để các quốc gia/dân tộc tự ý thức về mình; nó phát minh ra các quốc gia/dân tộc ở những nơi chúng không hiện diện.(11) Tuy nhiên, mặt hạn chế nơi sự lập thức này của Gellner nằm ở chỗ: do quá khao khát cho thấy việc chủ nghĩa quốc gia/dân tộc được hóa trang dưới một sự ngụy tạo sai lầm, Gellner đã đồng hóa “sự phát minh”, với sự “ tạo chế” và “ngụy giả”. Theo cách này, ông có lẽ đã hàm ngụ rằng vẫn có hiện hữu đâu đó các cộng đồng “ thực sự ” nào đó, tức các cộng đồng có thể được liên kế theo cách tốt hơn hơn các quốc gia/dân tộc. Thật ra thì, bất kỳ cộng đồng nào lớn hơn các ngôi làng cổ xưa, mà ở đó vẫn hiện hữu sự liên hệ trực tiếp giữa các thành viên (và thậm chí có lẽ giữa các làng này), đều là những gì được tưởng tượng ra cả mà thôi. Các cộng đồng sẽ được phân biệt không bởi tính “ngụy giả” hay “thuần thực” của chúng, mà bởi phong cách người ta tưởng tượng ra chúng.

Những dân làng ở Java luôn biết rằng họ có liên hệ tới những người mà họ chưa bao giờ thấy mặt, song mối dây liên hệ này đã từng được tưởng tượng ra một cách rất đặc thù: là các tổ hợp gia đình họ hàng hay những người được bảo trợ có thể vươn tới nhau được một cách vô hạn. Thậm chí cho tới rất gần đây, trong ngôn ngữ Java vẫn không có từ “xã hội”- tức một khái niệm trừu tượng. Ngày nay, có lẽ chúng ta nghĩ về các quý tộc Pháp của chế độ phong kiến xưa kia như thể một giai cấp: song chắc chắn đó chỉ là một sự tưởng tượng và sự tưởng tượng này chỉ đến từ mãi sau này (12). Để trả lời câu hỏi, “ ai là Comte de X?”, câu trả lời thông thường sẽ không phải là “ ông ta là một thành viên của giai cấp quý tộc”, mà là “ ông ấy là quận công X, “ chú của Baronne de Y”, hay “ Ông ấy là một kẻ được công tước de Z bảo trợ”

Quốc gia/dân tộc được tưởng tượng ra như thể trong một phạm vi giới hạn, bởi thậm chí cả một quốc gia/dân tộc lớn nhất, có một tỉ người đi chăng nữa, vẫn chỉ có tính hữu hạn vì nó phải có một biên giới mà phía bên kia biên giới đó phải là các quốc gia/dân tộc khác. Không một quốc gia/dân tộc nào tự tưởng tượng mình chính là cả nhân loại. Các nhà theo chủ nghĩa quốc gia/dân tộc thuộc thuyết Messiah thuần thành nhất [tức những người trông đợi về một Đấng thiên sai sẽ tới để tiêu diệt tội ác, tai họa và mang tới hạnh phúc chính nghĩa và hòa bình, và cũng là những người không tin rằng Ki-tô chính là đấng thiên sai đó. Những người này tin rằng Đấng thiên sai đó sẽ về lại Jerusalem, và miền đất hạnh phúc sẽ là Jerusalem-ND] không hề mơ tới một ngày khi mọi thành viên của mọi chủng tộc con người sẽ cùng nhập vào quốc gia/dân tộc của họ theo cách mà những người theo Ki-tô giáo cho rằng, vào một kỷ nguyên nào đó, cả hành tinh này sẽ thuộc về những người Ki-tô giáo.

Quốc gia/dân tộc được tưởng tượng ra như thể có tính chủ quyền bởi khái niệm này được sinh ra trong một kỷ nguyên mà ở đó sự khai minh và cách mạng đang tàn phá đi tính hợp pháp của các lãnh địa thuộc vương quyền và thần quyền có tính phân cấp. Khái niệm này đạt tới tuổi trưởng thành vào một giai đoạn lịch sử nhân loại khi thậm chí các nhóm ủng hộ sùng tín nhất đối với bất kỳ tôn giáo phổ quát nào đểu tất yếu phải đối mặt với chủ thuyết đa nguyên sống động nơi chính các tôn giáo đó, và khi xuất hiện hiện tượng dị hình [allomorphism] giữa các đòi hỏi có tính bản thể học của mỗi niềm tin và sự mở rộng lãnh thổ, tức giấc mơ tự do của các quốc gia, và nếu đó là một quốc gia bị chi phối bởi thần quyền, thì giấc mơ tự do đó càng có tính trực tiếp. Rốt cuộc, vật cược và biểu hiệu cho sự tự do ấy chính là một nhà nước có chủ quyền

Cuối cùng, quốc gia/dân tộc được tưởng tượng ra như thể một cộng đồng bởi, bất chấp sự bất công và bóc lột có thực, tức những gì có lẽ đang tràn ngập nơi mỗi cộng đồng đó, quốc gia/dân tộc vẫn luôn được quan niệm như thể một điều gì có tính bằng hữu sâu đậm, không phân biệt chức tước hay địa vị. Vấn đề ở đây là, chính cái tình cảm bằng hữu, đồng hội đồng thuyền này đã tạo điều kiện cho việc, trên hai thế kỷ qua, bao nhiêu triệu người sẵn sàng giết và sẵn sàng bị giết cho những sự tưởng tượng về một phạm vi cộng đồng có giới hạn đó.

Những cái chết ấy lập tức bắt chúng ta phải đối mặt với vấn đề trọng tâm của chủ nghĩa quốc gia/dân tộc: điều gì làm cho các sự tưởng tượng có tính cằn cỗi của lịch sử (chỉ mới xuất hiện cách đây hơn hai thế kỷ) lại sinh ra được những sự hy sinh nhân mạng khổng lồ như thế? Tôi tin rằng những câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi này nằm nơi các cội rễ văn hóa của chủ nghĩa quốc gia/dân tộc

-------

* Nhan đề bài viết do người dịch tự đặt

1-Sự lập thức này được lựa chọn đơn giản chỉ để nhấn mạnh tầm mức và phong cách của cuộc chiến tranh, chứ hoàn toàn không có tính chỉ trích hay phê phán. Để tránh các hiểu lầm không đáng có, có lẽ nên minh định rằng cuộc xâm chiếm Cam-pu-chia vào tháng 12 năm 1978 của quân đội Việt Nam là kết quả từ các cuộc đụng độ vũ trang giữa các du kích quân của hai phong trào cách mạng (Việt Nam và Cam-pu-chia) từ năm 1971. Sau tháng 4 năm 1977 đã xuất hiện cách cuộc tấn công biên giới, khởi đầu do quân đội Cam-pu-chia, song ngay sau đó đã được đáp trả bởi quân đội Việt Nam, và ngày càng tăng dần về phạm vi và mức độ, lên tới mức của một cuộc đột kích lớn của Việt Nam vào năm 1977. Tuy nhiên, không một cuộc tấn công nào trong số này nhắm tới mục tiêu loại bỏ chính quyền của kẻ thù hay xâm chiếm một lãnh thổ rộng lớn như cuộc tấn công vào tháng 12 năm 1978 của quân đội Việt Nam, cũng như số lượng quân đội tham gia các cuộc tấn công này không thể so sánh với cuộc tấn công ấy. Các tranh luận sâu sắc về nguyên nhân của cuộc chiến tranh này giữa Việt Nam và Cambodia có thể tìm trong: Stephen P. Heder, “The Kampuchean-Vietnamese Conflict” [Cuộc xung đột giữa người Việt và người Cam-pu-chia], trong David W. P. Elliott ( biên tập), “The third Indochina Conflict" [ Cuộc xung đột thứ ba ở Đông Dương], tr. 21-67; Anthony Barnett, “Inter-Communist Conflicts and Vietnam” [ Các cuộc xung đột trong thế giới cộng sản và Việt Nam], Bullentin of Concerned Asian School, 11:4 ( Tháng 10- Tháng 12 năm 1979), tr. 2-9; và Laura Summers, “ In Matters of War and Socialism Anthony Barnett would shame and Hounour Campuchea Too Much” [ Về vấn đề chiến tranh và chủ nghĩa xã hội, Anthony Barnett đã làm xấu hổ và vinh danh người Cam-pu-chia quá nhiều], sđd. Tr. 10-18

2-Bất kỳ ai có những nghi ngờ về sự đòi hỏi của nước Anh để được tương đương như thế với Liên Xô nên tự hỏi bản thân mình về việc cái tên Great-Brito-Iris định hàm chỉ tới điều gì?

3- Eric Hobsbawn, “ Some Reflections on “The Break-up of Britain”[ Vài suy tư về “sự tan rã của nước Anh”, New Left Review, 105 ( Tháng 9-Tháng 11 năm 1977), tr.13

4-Xem cuốn Nations and States [Quốc gia/dân tộc và nhà nước] của ông (in nghiêng của tác giả)

5- Xem bài “The Modern Janus”, New Left Review ( Tháng 11- tháng 12 năm 1975), tr. 3. Tiểu luận này cũng được đưa lại vào cuốn The Break-up of Britain trong vai trò là chương 9 ( tr. 329-363)

6-Karl Marx và Friederich Engels, The Communist Manifesto [ Tuyên ngôn của đảng cộng sản], trong selected works I [tuyển tập tác phẩm, tập 1] . Trong mọi sự bình giải lý thuyết, chữ “ tất nhiên” cần được bôi đỏ trước khi chuyển lại cho người đọc

7- Như các ghi chú của Aira Kemilaenen, “hai người cha” song sinh của ngành nghiên cứu kinh viện về chủ nghĩa dân tộc/quốc gia, hans Kohn và Carleton Hayes, đều đã biện luận rất thuyết phục về thời điểm ra đời này. Tôi cho rằng, ngoài các ý thệ có tính quốc gia/dân tộc ở một số nước nào đó, các kết luận của họ đã không được tranh luận nghiêm túc. Kemilaenen, cũng quan sát rằng thuật ngữ “ chủ nghĩa quốc gia/dân tộc” đã không được sử dụng rộng rãi cho tới thời điểm kết thúc của thế kỷ 19. Ví dụ, nó đã không xuất hiện trong rất nhiều từ điển chuẩn định của thể kỷ 19. Nếu Adam Smith đã kết nối nó với sự giàu có của các “quốc gia/dân tộc”, ông đã chỉ coi thuật ngữ ấy không hơn một sự thay thế cho thuật ngữ “các xã hội”. Aira Kemilaenen, Nationalism, tr. 10-33 và 48-49

8- Sự tan rã của nước Anh, tr. 359

9- So sánh với Seton-Watson, Nations and States [Quốc gia và nhà nước], tr.5: “ tất cả những gì tôi có thể nói là một quốc gia/dân tộc chỉ hiện hữu khi có một số lượng người nhất định trong một cộng đồng coi bản thân là người thành lập ra quốc gia đó, hay hành động như thể họ đã tạo ra nó”. Chúng ta có lẽ sẽ thay chữ “coi bản thân”, bằng chữ “tưởng tượng bản thân”

10-Ernest Renan, “Qu’est-ce qu’une nation?” [ một quốc gia/dân tộc là gì?] trong Oeuvre Complètes”, 1, tr. 892. Ông còn thêm vào :” tout citoyen francais doit avoir oublié la Saint-Barthélemy, les massacres du Midi an XII siècle. Il n’y a pas en France dix familles qui puissant fournir la prevue d’une origine france…” [Mọi công dân Pháp chắc đều đã quên thánh Saint-Barthélemy, các vụ thảm sát tại vùng Midi vào thế kỷ XII. Không có đến 10 gia đình tại Pháp có thể cung cấp bằng chứng về nguồn gốc nước pháp…-ND]

11- Ernest Gellner, Thought and Change [Tư tưởng và sự thay đổi], tr. 169. (in nghiêng của tác giả)

12- Howbsbawm, ví dụ, đã “sửa lỗi” khi nói rằng năm 1789 giai cấp quý tộc được cho là có khoảng 400.000 người trong tổng số 23.000.000 dân. Xem The Age of Revolution [ Kỷ nguyên cách mạng]. Song có chắc hình ảnh thống kê này về các nhà quý tộc không phải là điều gì được tưởng tượng ra từ chính quyền ngày xưa?

Nguồn: Lời nói đầu cuốn Imagined community, Reflections on the Origin and Spread of Nationalism [cộng đồng được tưởng tượng ra, các suy nghĩ về nguồn gốc và sự bành trướng của chủ nghĩa quốc gia/dân tộc], từ trang 1-7, Benedict Anderson, Verso, London-New York tái bản lần thứ 2, có sửa chữa, 1991.



cảm ơn em Phương Loan cho phần dịch hai đoạn văn tiếng Pháp của bài dịch này

Note: Bài vừa được edited lại (lần 1) theo một số corrections của Thu Giang

3 nhận xét:

  1. Hay lắm anh!
    Càng đọc càng thấy chính trị đúng là trò chơi của một số kẻ ham quyền lực, khái niệm quốc gia, dân tộc quả là mập mờ và bị đẩy lên quá khích như thể chỉ để phục vụ cho sự bền vững của thứ quyền lực trên :-(

    Trả lờiXóa
  2. he he... lại được khen á. Thích quớ ! ^^

    Trả lờiXóa