Thứ Hai, 17 tháng 6, 2013

Marina Abramovic, Ulay, Tình-yêu-thương, sự-thật...


Marina Abramobvic và Ulay là một đôi nghệ sĩ lừng danh của thế kỉ 20, tuy nhiên, ở đây, tôi không muốn nói về nghệ thuật của họ (các bạn có thể google để biết thêm về họ ở mặt này).


tác phẩm AAA của Marina Abramovic và Ulay (1978)


Sau nhiều năm cộng tác nghệ thuật, và là bạn tình của nhau, đến một ngày, cả hai thấy không thể tiếp tục mối quan hệ. Trong một số cuộc phỏng vấn mỗi người đều đổ tại người kia không chung thuỷ. Tuy nhiên, theo tôi, lý do thực cho sự chấm dứt này có lẽ là bởi sau nhiều năm duy trì mối quan hệ vừa là bạn nghệ sĩ (chia sẻ ý tưởng) vừa là bạn tình ( chia sẻ cuộc sống), vừa hiện hữu trong không gian riêng tư ( như một đôi tình nhân ) vừa trong không gian công cộng (như một cặp nghệ sĩ nổi tiếng), cả hai đã quá mệt mỏi. Và thế là họ quyết định chia tay.

Địa điểm diễn ra khoảnh khắc chia tay của họ, được họ lựa chọn, là điểm giữa của vạn lí trường thành tại Trung Hoa. Cả hai quyết định mỗi người sẽ đi bộ từ một đầu của vạn lí trường thành, và sẽ gặp nhau ở điểm giữa của nó. Quãng đường mỗi người phải đi là khoảng 2500 km, và  họ sẽ phải đi ròng rã trong khoảng 6 tháng.  Ngay thời điểm gặp nhau sau quãng đường dài đó, cả hai sẽ chia tay nhau và không gặp lại.

Chính tại điểm này,  khoảnh khắc chia tay của họ đã làm tôi nhớ đếnchương Corinthians 13 trong kinh thánh. Bản diễn dịch của tôi chương này có 1đoạn như sau:

“Tình yêu thương không đưa người ta kết bè cánh trong điều sai trái mà giúp họgặp nhau trong sự thật” (1)
Key words của đoạn này, theo tôi , là ở cụm “gặp-nhau-trong-sự-thật”.

Vậy thế nào là “gặp-nhau-trong-sự-thật”? và vì sao “gặp-nhau-trong-sự-thật”lại là một mệnh đề tương phải với “kết-bè-cánh-trong-điều-sai-trái”. Câu trả lời ở đây rất đơn giản.

Rất lắm khi, khoảnh khắc “gặp-nhau-trong-sự-thật” lại chính là khoảnh khắc chia ly. Tuy nhiên, sự chia ly này là một sự chia ly trong sángrõ, trong thấu hiểu, trong sự ý thức rằng điều gì đó đã hết, đã chấm dứt, và càng níu kéo, sẽ càng làm cho mọi chuyện bất hạnh thêm ở chỗ sự níu kéo đó sẽ biến việc không-chia-ly trở thành một dạng “kết-bè-cánh-trong-điều-sai-trái” .

Hiểu như vậy, ta sẽ thấy ra ở đây một mệnh đề có vẻ nghịch lí “ GẶP GỠ CHÍNH LÀ CHIA LY”.

Ta có thể hiểu mệnh đề nghịch lí này theo hai cách.

1-   Nếu đó là một “gặp -gỡ-trong-sự-thật”, tức trongsự giác ngộ rằng điều gì đó đã hết, đã không còn, đã tàn hủy và không thể cứu vãn, thì sự chia ly tiếp theo sẽ là điều tất yếu.  Chính vì lẽ đó, tất cả các bên trong cuộc chia ly, vào chính khoảnh khắc chia ly, sẽ gặp lại, hội ngộ  được với sự thật của mình và của nhau. Sự chia ly này, do đó, cũng chính là hội ngộ, và cũng vì thế, sẽ đem lại bình yên. 

2-   Tuy nhiên, cũng có thể hiểu mệnh đề này theo cách rằng, nếu các bên, trong ý thức về sự chia ly tất yếu, vẫn muốn níu kéo, thìsự níu kéo này, dù cho có thể thành công, cũng lại đã trở thành một sự chia ly:sự chia ly khỏi sự thật, chia ly khỏi bản thân mình để vong thân cho điều gì đókhông phải là mình.
Nhìn từ góc độ này, ta sẽ thấy ý nghĩa của việc Marina Abramovic và Ulay, sau khoảng 6 tháng ròng rã đi bộ trên vạn lí trường thành, một biểu tượng của sự ngăn cách,  để rồi vào đúng khoảnh khắc gặp nhau ở giữa bức tường thành vĩ đại đó, cả hai quyết định chia tay- là một biểu tượng vĩ đại cho hội ngộ, chứ không hề là một câu chuyện đơn giản về sự chia ly.


Vạn lí trường thành 1988



 *

Sau cuộc “hội ngộ” đó (diễn ra vào năm 1988) khoảng 20 năm, từ tháng Ba đến tháng Năm năm 2010, Marina Abramovic khởi động 1 dự án mới của bà tại bảo tàng nghệ thuật hiện đại New York có tên là “Nghệ sĩ vẫn trong hiện tại”. Suốt 736 giờ và 30 phút, nghệ sĩ ngồi yên trước một chiếc bàn và mời các công chúng lên ngồi đối diện với bà, và nhìn vào bà.

Điều mà Marina Abramovic không ngờ tới chính là việc, từ đận chia ly/hội ngộ trên vạn lý trường thành năm xưa, sau nhiều năm không gặp gỡ và liên lạc, Ulay đã bất ngờ xuất hiện…


Gặp lại 2010


Các bạn có thể xem video clip ngắn, song vô cùng súc tích, về toàn bộ câu chuyện này ở dưới đây


-----

1- có thể đọc toàn văn bản diễn dịch của tôi ở đây:

Thứ Tư, 6 tháng 3, 2013

Một cuộc tranh luận giữa Ngải Vị Vị và Paul Gladston

Hai bài viết dưới đây, một bài do Ngải Vị Vị, nghệ sĩ và nhà tranh đấu Trung Hoa đăng trên guardian, phản đối triển lãm mới đây có tên "Nghệ thuật của sự biến dịch: Những xu hướng mới từ Trung Hoa" được tổ chức tại gallery  Hayward, London, và bài thứ hai, do giáo sư Paul Gladston, giáo sư đại học  Nottingham, London, phản biện lại bài viết của Ngải Vị Vị, đăng trên radian

Đây là một cuộc trao đổi rất hữu ích cho nghệ thuật đương đại Việt Nam nói chung, khi nó đề cập đến các tình huống tương tự với tình huống tồn tại của nghệ thuật  đương đại Việt Nam, ví dụ tình huống của mối quan hệ giữa chính trị với nghệ thuật, tình huống của sự khác biệt văn cảnh giữa người xem phương Tây với các tác phẩm nghệ thuật đương đại địa phương, với bản chất luỵ văn cảnh, v.v. Vì lẽ đó, tôi (Như Huy) đã dịch cả hai bài viết này với mục đích tư liệu tham khảo. Các trích dẫn hay đăng lại bản dịch này cần thiết phải ghi rõ nguồn và tác giả bản dịch là Như Huy


----

1-Ngải Vị Vị: Giới nghệ thuật Trung Hoa không hề hiện hữu


Việc gì phải đi tổ chức cả một triển lãm có cái tên là : Nghệ thuật của sự biến dịch: Các hướng đi mới của nghệ thuật Trung Hoa? Tôi nghĩ không có gì đáng để nói về các hướng đi mới khi bàn đến nghệ thuật Trung Hoa- nơi thậm chí còn không có các hướng đi cũ. Nghệ thuật Trung Hoa chưa hề có bất kì định hướng rõ ràng nào. Đúng là trong một triển lãm khai mạc tại Hayward Gallery ở London tuần trước có các nghệ sĩ mạnh mẽ hơn hẳn các nghệ sĩ khác trong nỗ lực chống lại các hạn chế do chính phủ áp đặt. Song điều này không hề thay đổi sự thật rằng triển lãm ấy cũng lại chỉ, thêm một lần nữa, là một nỗ lực nhằm chào hàng với công chúng phương Tây cái gọi là “nghệ thuật Trung Hoa đương đại”. Làm thế nào bạn có thể có một triển lãm về “nghệ thuật Trung Hoa đương đại” mà ở đó không có một chủ đề đương đại cấp thiết nào của đất nước được đề cập tới?

Tôi rất biết tác phẩm của hầu hết các nghệ sĩ trong triển lãm. Dĩ nhiên các tác phẩm này của Trung Hoa, song, nhìn chung, triển lãm hoàn toàn thiếu vắng cái nhìn phê phán. Trông nó giống với một hàng ăn tàu trong khu Hoa kiều, nơi bán các món ăn quen thuộc, như Gà Kung Pao, hay sườn heo chua ngọt. Mọi người sẽ ăn, và nói, ok, đây là đồ ăn Hoa. Tuy nhiên những thứ đó chỉ đơn giản là các món ăn dễ bán, và chỉ cho ta thấy rất ít về trải nghiệm thực sự của đời sống Trung Hoa ngày nay.

Sự áp đặt toàn bộ của nhà nước lên nghệ thuật và văn hoá đã cấm ngặt quyền tự do ngôn luận trong đất nước. Suốt hơn 60 năm qua, bất kì ai có quan điểm trái với đường lối đều bị đàn áp. Nghệ thuật Trung Hoa chỉ đơn thuần là một thương phẩm: nó từ khước bất kì sự dấn thân có ý nghĩa nào. Nó không hướng đến bất kì điều gì ngoài phạm vi này. Mục tiêu duy nhất của nó chỉ là làm mãn nhãn người xem bằng sự mập mờ của nó

tác phẩm "Ngủ" [sleeping] (2004/2012) của Ying Duan, tại triển lãm "Nghệ thuật của sự biến dịch: Các hướng đi mới từ Trung Hoa". Ảnh: Felix Clay

Giới nghệ thuật Trung Hoa không hiện hữu. Trong một xã hội hạn chế tự do cá nhân và vi phạm nhân quyền, bất kì điều gì tự gọi mình là sáng tạo hay độc lập đều chỉ là man trá. Với một xã hội toàn trị, việc sáng tạo điều gì đó bằng đam mê và trí tưởng tượng là bất khả.

Trung Hoa là một quốc gia với một lịch sử phong nhiêu. Sự bùng nổ kinh tế của nó đã khơi nên cơn thèm thuồng và sự tò mò từ khắp thế giới với nền nghệ thuật và văn hoá Trung Hoa, và điều này vẫn đang còn tiếp tục. Tuy nhiên, tôi có thể nói với mọi người rằng, đây chỉ là một màn kịch thiếu vắng diễn viên. Chính phủ Trung Hoa  tiêu hàng tỉ Đô la cho các dự án “quyền lực ngầm” (soft power initiatives) tìm mọi cách để cổ vũ và hỗ trợ sự trao đổi văn hoá với phương Tây, nhằm mục đích thể hiện đất nước như một quốc gia văn minh. Những động thái diễn trò này không khác gì với chính sách ngoại giao bóng bàn của chủ tịch Mao, từng được thực hiện hồi những năm 70s của thế kỉ trước: Các vận động viên bóng bàn Mỹ được mời sang Trung Hoa để chơi các trận giao hữu và qua đó tạo điều kiện cho một mối quan hệ chính trị. Theo cách này, Các chú gấu Panda khổng lồ cũng đã được gửi tặng cho rất nhiều quốc gia nhằm tăng cường mối quan hệ ngoại giao

Hình chi tiết từ tác phẩm của Peng Yu và Sun Yuan, " Tôi đã không chú ý là tôi đang làm gì" [I Didn't Notice What I am Doing] (2012) tại triển lãm "Nghệ thuật của sự biến dịch: Các hướng đi mới từ Trung Hoa". Ảnh: Felix Clay

Năm ngoái, chúng ta đã thấy Trung Hoa đưa quảng cáo đậm chất tuyên truyền của mình vào giữa quảng trường Thời đại ở New York. Trong một màn quảng cáo mà tờ quốc báo Xinhua miêu tả là một “chiến dịch ngoại giao công cộng”, các màn hình lớn chiếu các video tôn vinh ngôi sao phim hành động Jacki Chan, vận động viên bóng rổ  Yao Ming, phi hành gia Yang Liwei, và hai dương cầm thủ Lang Lang và Li Yundi. Đồng thời, viện Khổng tử, nơi cổ vũ và tuyên truyền về văn hoá Trung Hoa, cũng mở chi nhánh khắp thế giới, cùng lúc đó là các chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới của những Đoàn nhào lộn theo phong cách truyền thống Trung Hoa. Với tôi, những màn diễn kiểu này là một sự lăng mạ trí tuệ của con người và là một sự nhạo báng khái niệm văn hoá- tức coi nó như một công cụ tuyên truyền mà ở đó, kĩ năng được khoe khoang mà không kèm theo bản chất, tài nghệ được trưng bày mà thiếu vắng nội dung.

Mặc dù nghệ thuật Trung Hoa bị ảnh hưởng nặng nề từ văn hoá phương Tây, song cùng lúc, nó lại từ khước các giá trị nhân bản căn cốt là bệ đỡ cho nền văn hoá ấy.  Đảng cộng sản Trung Hoa tuyên bố về một chủ nghĩa xã hội mang đặc tính Trung Hoa, song không một ai, kể cả người Trung Hoa, hiểu đó là cái chi chi. Với tất cả những điều này, cộng thêm sự thiếu ý thức về bản sắc cá nhân của các nghệ sĩ, không có lý do gì để mong đợi một triển lãm nghệ thuật Trung Hoa tại phương Tây chỉ trích hệ thống một cách hiệu quả. Song bất kỳ triển lãm nào được giám tuyển mà thiếu đi sự tôn vinh nỗ lực tranh đấu của con người, thiếu đi sự quan tâm tới nhu cầu tự biểu lộ một cách trung chính của nghệ sĩ, thì triển lãm ấy sẽ không tránh khỏi việc đưa ra một kết luận sai lầm. Bất kì điều gì tự gọi bản thân là một sự trao đổi văn hoá đều sẽ chỉ là giả tạo nếu nó thiếu đi một nội dung phê phán. Những gì cần được thấy là các thảo luận thẳng thừng, tức một bệ đỡ cho các luận điểm khác nhau. Nghệ thuật cần phải hiến mình cho điều gì đó. 

2-Bỏ Ngải Vị Vị qua bên


Một phản ứng lại với  bình luận của Ngải Vị Vị về triển lãm "Nghệ thuật của sự biến dịch: các xu hướng mới từ Trung Hoa"

Triển lãm mới nhất của Gallery Hayward “Nghệ thuật của sự biến dịch: các xu hướng mới từ Trung Hoa" vừa đây đã đón nhận rất nhiều phản ứng từ quốc tế qua những bài viết hầu hết là tích cực, tức những gì trong mọi trường hợp đều phản ánh cả sự thoả mãn lẫn phấn khích. Trong khi một số người viết cho thấy sự không chắc chắn lắm về ý nghĩa chính xác của một số tác phẩm, hầu hết đều chia sẻ quan điểm rằng triển lãm đã trình bày được một tuệ kiến về mối quan hệ giữa nghệ thuật đương đại và xã hội ở Trung Hoa, cụ thể hơn, về sự dấn thân ở góc độ phê phán của nghệ thuật Trung Hoa đương đại nhắm vào chính quyền. Sự kết hợp này của các ấn tượng khác nhau có lẽ không phải là điều gì bất ngờ. Bất chấp sự phủ sóng truyền thông hầu như mỗi ngày, Trung Hoa vẫn là điều gì đó xa vời tại Anh. Hậu quả là, hầu hết những người viết ở Anh đã thiếu đi tri thức chi tiết cụ thể (tri thức về văn cảnh Trung Hoa-ND) cần phải có để có thể tiếp cận với nghệ thật đương đại Trung Hoa. Cùng lúc ấy, về mặt nghệ thuật, người xem lại bị thách thức trước một dạng nghệ thuật mà ý nghĩa của nó họ chỉ nắm bắt được phần nào, song chính dạng nghệ thuật ấy lại đang dấn thân một cánh tường minh vào một mối quan hệ phức tạp với những thay đổi hiện đang diễn ra tại Trung Hoa đương đại.

Tuy nhiên có một người viết đã không hề có ấn tượng gì về triển lãm này. Trong các bình luận của ông cho đăng trên tạp chí Guardian vào ngày mùng 9 tháng 9 năm 2012, nghệ sĩ và nhà đấu tranh Ngải Vị Vị đã mở cả một cuộc tấn công gay gắt nhắm vào những nhà tổ chức triển lãm“Nghệ thuật của sự biến dịch", buộc tội họ về việc đã trình bày sai về nghệ thuật đương đại ở Trung Hoa. Theo quan điểm của Ngải, triển lãm đã thất bại trong việc định vị “các chủ đề đương đại cấp bách nhất”, và cụ thể là thực tế rằng ở Trung Hoa hiện nay “không có chỗ cho sự tự do ngôn luận”. Nghệ thuật đương đại ở Trung Hoa, Ngải lý luận, chỉ là một “sản phẩm đơn thuần”,tức điều “từ chối bất kỳ một sự dấn thân có ý nghĩa nào” và mục đích duy nhất của nó khi được đem ra ngoài Trung Hoa, bởi vậy, chỉ để “làm mãn nhãn người xem bằng sự mập mờ của nó”.Không có vẻ gì là Ngải đã thực sự đến xem triển lãm hay đọc vựng tập của nó bởi hiện ông vẫn bị cấm cố trong ngôi nhà của mình tại Bắc Kinh.

Trong những năm gần đây, sự hiện diện của  Ngải Vị Vị đã trở nên quen thuộc nơi không gian truyền thông nước Anh. Những bài diễn thuyết huênh hoang tràng giang đại hải, những cú tấn công công khai và gay gắt nhắm vào chế độ quan liêu hành chính, những triển lãm và tác phẩm gây sốt trên mọi phương tiện truyền thông, một phóng sự dài kỳ của BBC do Alan Yentob thực hiện về việc Ngải bị cảnh sát hành hung và sau đó được đưa vào bệnh viện trong tình trạng thập tử nhất sinh, việc Ngải bị bắt và giam giữ mà không hề được đưa ra xét xử, sự truy tố Ngải về tội trốn thuế, sự lạc quyên của bè bạn và những người giấu tên nhằm giúp trả tiền thuế cho Ngải, và mới gần đây, một chân dung tự hoạ có tính điện ảnh của nghệ sĩ như một con người không thoả hiệp và không hối hận đã bảo vệ cho vị trí của Ngải, không chỉ như một người bình luận thích hợp nhất về chủ đề nghệ thuật đương đại ở Trung Hoa, mà còn như hiện thân huy hoàng cho nỗ lực chống lại chủ nghĩa toàn trị tại Trung Hoa. Không một phóng sự trên đài, trên truyền hình, hay trên mặt báo về nghệ thuật đương đại Trung Hoa nào sẽ được coi là đầy đủ nếu không có ít ra là một tham chiếu loáng thoáng về Ngải, trong vai trò nghệ sĩ Trung Hoa nổi tiếng nhất và, có lẽ quan trọng nhất hiện còn đang sống. Với truyền thông Anh, ông có vai trò như thể phiên bản, nhìn từ góc độ văn hoá nghệ thuật, của Aung San Suu Kyi; Ông như thể một ngọn hải đăng đối lập, tự đốt cháy mình, tuy giờ đây buộc phải im lặng phần nào do bị nhà cầm quyền cấm cố tại gia, vẫn cuồng nộ chống lại những bất công do chính quyền Trung Hoa áp đặt xuống ông và những người khác.

Bất chấp các cải cách kinh tế và xã hội theo hướng tự do hơn trong ba thập kỉ gần đây, Trung Hoa vẫn là một quốc gia có một nền chính trị luôn tàn bạo đến nghẹt thở. Những thách thức công khai nhắm vào quyền lực của đảng công sản cầm quyền cũng như bất kỳ điều gì có thể nhìn nhận là sẽ làm xói mòn tính toàn vẹn của nhà nước-quốc gia Trung Hoa, tức những thách thức và mối nguy từng hiện hữu suốt dọc thời kỳ Mao-ít, đều đơn giản là không được cho phép. Hậu quả cho những sự vi phạm  - sự quấy rối cá nhân và gia đình, sự giam cầm không có toà án xét xử, sự trục xuất, và thậm chí cái chết- là nhất quán trong việc hoàn toàn cụ thể và độc ác. Tuy nhiên với sự xuất hiện nhanh chóng và ngày càng rộng rãi của tính hiện đại hậu chủ nghĩa xã hội tại Trung Hoa từ thập kỷ 70s của thế kỷ trước, các hạn chế về tự do hành động và ngôn luận đã trở nên linh hoạt và mờ nhoà hơn. Kết quả là, sự tự giám sát tất cả những gì có thể bị nhìn thấy, sự tự ra kỷ luật, sự phô diễn ngoạn mục quyền lực quốc gia và sự giàu có vật chất đang tăng nhanh, tất cả những điều ấy giờ đây trở thành những chiến luỹ tổng hợp trước trật tự xã hội chính trị phổ biến khắp Trung Hoa. Quyền lực quốc gia trực tiếp chỉ được cho là cần thiết khi giáng xuống các sự phản kháng cực đoan hoặc có tính lặp đi lặp lại. Ngải tiếp tục nhắc nhở chúng ta về các thực tế đáng chê trách và xấu xa triệt để này không chỉ qua rất nhiều hành động khác nhau của ông khi công khai chống lại chính quyền, mà còn qua chính tình trạng thực tế của bản thân ông, khi bị cấm cố trong ngôi nhà của mình. Sự quấy nhiễu chính quyền không ngưng nghỉ và sự không khuất phục của ông trước các hăm doạ đã dẫn đến kết quả là phản ứng đầy nguy hiểm và đe doạ song vô hình từ phía chính quyền mà viễn cảnh đơn thuần của phản ứng ấy chắc chắn sẽ làm hầu như tất cả chúng ta khiếp sợ trong sự câm lặng tuyệt vọng mãi mãi. Với sự thách thức trực diện của mình nhắm vào quyền lực, Ngải đã và đang xứng đáng với sự chú ý và ngưỡng mộ của chúng ta.

Mặc dầu vậy, có những mối nguy hiểm nghiêm trọng trong việc tôn vinh Ngải như thể người đại diện/kẻ trung giới duy nhất cho sự kháng cự của giới nghệ thuật đối với chính quyền Trung Hoa.  Trong khi lập trường đối đầu thẳng thừng và thường xuyên có tính khoa trương của ông luôn dễ dàng được chia sẻ trong văn cảnh tự do dân chủ phương Tây, nơi vẫn còn hiện diện dai dẳng ý niệm lãng mạn về những người hùng bất đồng chính trị bất chấp hiểm nguy khi đối mặt với quyền lực độc tôn, chính nó lại hoàn toàn không hề đại diện cho lập trường phê phán của hầu hết các nghệ sĩ Trung Hoa khác.  Có lẽ Ngải đã tự định vị bản thân một cách đầy ngưỡng mộ theo mẫu các ý thể kiểu phương Tây và Khai Minh về sự tự do và cởi mở, song sự thẳng thừng nghiệt ngã và tính thô sơ đến mức diễn nôm trong cách ông phê phán chính quyền đã ngăn cản một cách hiệu quả kiểu thảo luận sâu sắc hơn về nghệ thuật đương đại trong phạm vi Trung Hoa cũng như về mạng lưới phức tạp nơi các luồng lực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội có tính văn cảnh hoá, tức những gì đang bao quanh và chi phối sự sản tạo và tiếp nhận nghệ thuật đương đại tại Trung Hoa.

Dĩ nhiên là tại Trung Hoa có một số lượng lớn các nghệ sĩ đương đại đã và đang tìm cách kết hợp các ảnh hưởng văn hoá từ cả Trung Hoa lẫn phi-Trung Hoa với nhau theo lối đơn giản chỉ với mục tiêu tìm kiếm thành công về thương mại. Cùng lúc ấy, cũng có một số rất ít nghệ sĩ, giống như Ngải, sử dụng một lối tiếp cận có tính thù địch nhắm vào chính quyền. Tuy nhiên, cũng vẫn có vô số nghệ sĩ khác tìm cách phát triển các ngôn ngữ thị giác được cấu tạo một cách đầy trí tuệ, có khả năng duy trì những hình thức tư duy và phát biểu phê phán theo một lối tinh tế hơn nhiều. Theo truyền thống Khổng-Lão của Trung Hoa, có một cách hiểu quen thuộc rằng nghệ thuật sở hữu tiềm năng đi xa hơn bề mặt hình thức đơn thuần của tác phẩm để trình ra được các bình luận xã hội quan trọng cũng như các sự Khai Minh về tinh thần. Đi theo truyền thống này, các sự phê phán thông qua nghệ thuật nhắm vào chính quyền ở Trung Hoa luôn có xu hướng hàm ngụ và thi vị, cũng như luôn được khai triển thông qua các hình thức đậm tính biểu tượng của sự không can dự. Sự thiếu thốn các phê phán thẳng thừng nhắm vào chính quyền này không hoàn toàn là vấn đề của thuyết hành dụng. Nó còn được coi là dấu hiệu của văn minh. Với những nghệ sĩ Trung Hoa văn minh, những người muốn đứng cao hơn sự tàn ác của quyền lực, các hình thức phê phán hàm ngụ và thi vị không chỉ  giúp tránh khỏi những kiểu định nghĩa dễ dãi, mà còn đươc cho là sở hữu một xung lực của sự tự khởi, thanh thoát, phù hợp với những cách thế của chính Thiên nhiên. Một ẩn dụ về việc này đã được viết trong cuốn sách kinh điển Đạo Đức Kinh của Lão Tử, về việc "vật mềm thắng vật cứng [nước chảy đá mòn]"


Tác phẩm của Liang Shaoji

“Nghệ thuật của sự biến dịch” là một triển lãm quan trọng và có tính mở đường trong việc cho thấy một phạm vi phức tạp các phản ứng phê phán đối với những sự thay đổi về quyền lực và xã hội trong nước CHND Trung Hoa. Trong khi một số tác phẩm của triển lãm sử dụng các khía cạnh thuộc tư tưởng và thực hành văn hoá truyền thống Trung Hoa như một sự thoát ly có tính kháng cự khỏi nền chính trị và đời sống Trung Hoa dòng chính, một số khác lại trình bày các phản ứng được mã hoá đơn giản và dễ đọc nhắm vào những sự phi lý đến bi thương của một xã hội vẫn bị tình trạng quan liêu, tham nhũng và sự thiếu minh bạch đến mức nghiệt ngã chi phối. Ví dụ của cách tiếp cận đầu tiên bao gồm cách Liang Shaoji sử dụng những redymades như các giá đỡ để đặt lên đó những tấm lụa do chính những con tằm sống nhả tơ mà thành (1). Một trong số cách đọc tác phẩm này cho thấy nó phản ánh mạnh mẽ mối quan tâm của nghệ sĩ đối với tính tương đối kiểu Lão Trang và Einstein- là một sự tương phản rõ rệt đối với ý niệm về sự tiến bộ khoa học duy lý, tức những gì được đảng cộng sản Trung Hoa cổ vũ. Ví dụ của lối tiếp cận sau là các tác phẩm video và sắp đặt của Sun  Yuan và Peng Yu, Gu Dexin  và Wang Jianwei tức các tác phẩm trình ra những hàm ngụ thường xuyên phức tạp và có tính bóng gió sâu xa về các hiệu ứng tổng hợp và những mâu thuẫn tiềm tàng  khi Trung Hoa tiến vào tính hiện đại toàn cầu song cùng lúc vẫn sở hữu các tàn dư dai dẳng có tính văn cảnh hoá của quyền lưc chuyên chế

Tác phẩm của Liang Shaoji

Nhìn từ một quan giác hậu Khai Minh kiểu phương Tây, tất cả những điều này cho thấy một sự yếu đuối đến mức khó tin, một kiểu đồng loã (với chính quyền), hay có lẽ, một dang tự định hướng. Tuy nhiên, Trung Hoa không phải là phương Tây, và ở đó có lẽ không có nhiều  triển vọng cho một sự chuyển hướng trong tương lai gần để có thể xuất hiện được kiểu tính công khai hay tính phê phán mà giờ đây đã quá quen thuộc trong văn cảnh dân chủ tự do phương Tây. Ấy thế nhưng, với những ai có đủ sự kiên nhẫn để quan sát, chắc chắn họ sẽ thấy ra các hình thức văn cảnh hoá của sự kháng cự, tức những gì, trong khi dễ dàng bị những cặp mắt phương Tây bỏ qua, vẫn tiếp tục, bằng phương cách lắt léo, và có lẽ, theo thời gian, đã và đang tạo được hiệu quả lên giới cầm quyền Trung Hoa.

Ngải Vị Vị đã đúng khi nhắc chúng ta phải luôn chú ý tới tình trạng bất công đến mức bệnh hoạn do quyền lực toàn trị tạo ra ở nước Trung Hoa, ông cũng chính xác khi quở trách những công chúng phương Tây bởi việc họ không có khả năng nhìn thấy quá khứ, tức những gì, với họ chỉ mang dáng vẻ mập mờ và giúp họ thoả mãn kiểu hương xa về nghệ thuật đương đại Trung Hoa. Tuy nhiên, điều không thuyết phục ở đây chính là quan điểm có tính quy giản tuyệt đối của Ngải về các khả thể phê phán khác nhau của nghệ thuật đương đại Trung Hoa. Qua việc khăng khăng đòi hỏi địa vi duy nhất cho lối tiếp cận phê phán kiểu đối lập một cách khoa trương nhắm vào quyền lực, và bởi giờ đây chúng ta đã quá biết về lối tiếp cận này, ta thấy chính Ngải chứ không phải Hayward, mới là người không thích hợp với vai trò đại diện cho giới nghệ thuật đương đại Trung Hoa. Ai đó cũng có thể bình luận thêm vào rằng, Ngải đang lãng mạn hoá các điều kiện cho tính phê phán kiểu phương Tây. 

------

*Tác giả Paul Gladston là giáo sư trường đại học Nottingham ở nước Anh  


1-Tác phẩm của Liang Shaoji được Rachel Spence mô tả như sau: “…sắp đặt của ông được trưng bày trong một phòng tối, mà ở đó có đặt những rổ đựng những con sâu tằm được phủ bằng những lá dâu tằm. Hành vi của những con sâu tằm này, bò sột soạt, rỉa lá, và kéo kén trong quá trình hoá bướm  đã được thu lại trực tiếp và phát ra qua tai nghe. Trong một phòng khác, những tấm màng mỏng bằng tơ tằm thô bọc những chiếc kén vào cùng với các đồ vật từ những chiếc giá đỡ làm bằng dây đồng tới những dây xích treo từ trần và những cửa sổ có chấn song  vông bằng gỗ kiểu Trung Hoa. Tất cả âm thanh, hình dáng và sự đan kết của tác phẩm đều biểu lộ một tính phổ quát siêu vượt khỏi thời gian và không gian. Trong một khoảnh khắc, chúng ta dường như thuộc về chính thế giới của những con sâu tằm, mà ở đó, quá khứ, hiện tại, tương lai là không thể chia tách...

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

Ca khúc "Dịu Dàng"




Dịu Dàng


Nhạc và lời: Như Huy
Người hát: Như Huy
Hoà âm: nhạc sĩ Đinh lăng
Piano: Trần Việt Anh
Violin: Ngọc Tú



Nơi anh ngồi đây phía sau căn phòng màu trắng
Cơn giông nào đem bóng đêm mây mù tràn qua
Anh nghe tình yêu thoảng trong những hơi gió lạnh
Và một ngôi sao lên trong mắt anh lóng lánh
Lóng lánh
Lóng lánh một ngôi sao ấy
Lóng lánh
Lóng lánh một ngôi sao ấy giữa mắt anh,
Giữa mắt anh em có thấy

Thoáng nụ cười em bình yên
Sáng nhẹ nhàng trong màn đêm
Nhắc lời tình yêu lặng im
Sáng dịu dàng như tình em

Thoáng nụ cười em bình yên
Sáng nhẹ nhàng trong màn đêm
Nhắc lời tình yêu lặng im
Sáng dịu dàng như tình em

Nơi anh ngồi đây bóng đêm đã tràn mọi lối
Nơi căn phòng xa sáng lên ánh đèn lẻ loi
Anh nghe ngọc lan thoảng trong gió khuya không lời
Và một ngôi sao lên trong mắt anh lóng lánh
Lóng lánh
Lóng lánh một ngôi sao ấy
Lóng lánh
Lóng lánh một ngôi sao ấy giữa mắt anh
Giữa mắt anh em có thấy

Thoáng nụ cười em bình yên
Sáng nhẹ nhàng trong màn đêm
Nhắc lời tình yêu lặng im
Sáng dịu dàng như tình em

Thoáng nụ cười em bình yên
Sáng nhẹ nhàng trong màn đêm
Nhắc lời tình yêu lặng im
Sáng dịu dàng như tình em



©Như Huy giữ bản quyền toàn bộ ca khúc và bản hoà âm

Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

Thơ Oscar Wilde (Như Huy dịch) | Ai Mà Chẳng Giết Đi Điều Họ Thương


Ai mà chẳng giết đi điều họ thương
Chúng ta phải
truyền đời chân lí ấy
Kẻ thì giết bằng cái nhìn đắng cay
Kẻ thì giết bằng những lời bóng bẩy
Kẻ lành giết bằng nụ hôn
Kẻ dữ giết bằng giáo gươm.

Có kẻ giết tình yêu thương khi đang còn trẻ
Có kẻ giết tình yêu thương khi đã già nua
Có kẻ lấy đôi tay nhục dục siết cổ nó
Có kẻ lấy đôi tay vàng ròng bóp cổ nó
Chính ra
kẻ tử tế nhất
lại là kẻ dụng dao
Vì theo cách này
Cái chết sẽ
đến nhanh
Ít-đớn-đau

Có kẻ giết 
bởi
chả-yêu-gì-mấy
Có kẻ giết
bởi
Cứ-yêu-lẵng-nhẵng-dằng-dai
Có kẻ giết vì bán
Có kẻ giết vì mua
Có kẻ vừa giết vừa khóc 
Có kẻ 
Khi ra tay
Không buông lấy
nửa-tiếng-thở-dài

Thế đấy,

Ai mà chẳng giết đi điều họ thương
Và rồi,
Vẫn-Cứ-Sống-Nhơn-Nhơn


© Như Huy  


Thư của Sol Lewitt, một trong những cha đẻ của chủ nghĩa tối giản, gửi cho Eva Hesse, nữ nghệ sĩ hậu tối giản


Như Huy dịch

Sol Lewitt


Eva thân mến

Có lẽ đã đến cả tháng trời rồi kể từ khi cô viết cho tôi, và bây giờ có khi cô đã quên tâm trạng mình lúc ấy (tôi đoán vậy). Cô có vẻ không hề thay đổi, và luôn như thế- căm ghét bản thân mình. Đừng. Hãy học cách thỉnh thoảng chửi đụ-mẹ thẳng vào thế giới. Cô có toàn quyền làm điều đó. Hãy ngưng nghĩ ngợi lòng vòng, lo lắng quẩn quanh, nhìn trước ngó sau, so đo, suy đoán, sợ hãi, tổn thương, hy vọng có lối thoát dễ dàng, vật vã, ôm đồm, lúng túng, ngứa ngáy, gãi ghẻ, lẩm bẩm, lúng búng, gầm gừ, may nhờ rủi chịu, lộn xộn, hóc xương gà, dẫm cứt, chẻ sởi tóc làm tư, bới lông tìm vết, vừa đái vừa run, chõ mũi vào việc không phải của mình, móc đít, tự chọc mù mắt, chỉ tay năm ngón, chui rúc xó xỉnh, chờ đợi đến chảy nhão ra, rón ra rón rén, mắt long sòng sọc lên, giở thói ông rút chân giò bà thò chai rượu, tìm kiếm, đi trên mây, bôi bẩn mọi thứ, mài mòn, mài mòn, và mài mòn năng lực bản thân. Hãy ngưng hết lại. Chỉ làm thôi. Từ những gì cô mô tả, và từ những gì tôi biết về các tác phẩm trước đây của cô, và về tài năng (sic) của cô; tác phẩm cô đang làm có vẻ rất hay đấy- “Vẽ sạch và rõ, nhưng điên rồ như những cỗ máy, to lớn, hơn, và dữ tợn hơn…thực sự vô nghĩa”. Có vẻ hay đó, tuyệt vời đó- cái sự thực sự vô nghĩa ấy. Làm nữa đi. Vô nghĩa thêm nữa đi, điên nữa đi, máy móc nữa đi, vú vê, lồn cặc nữa đi, bất cứ điều gì- hãy làm chúng trông càng vô nghĩa càng tốt. Hãy cố gắng, và hãy khêu gợi điểu gì đó từ bên trong cô, sự “hài hước kì dị” của cô. Cô thuộc về phần bí mật nhất trong cô. Đừng nghĩ nhiều về việc phải oách, hãy tạo ra cái hai-lúa của chính mình. Hãy để mình là mình, là thế giới của mình. Nếu sợ hãi thì hãy bắt sự sợ hãi đó phải hầu cô- hãy vẽ kí hoạ hay vẽ sơn nỗi sợ hãi và âu lo đó. Hãy ngưng nghĩ về các thứ lớn lao to tát sâu xa như là “ quyết định một mục đích và một lối sống, một tiếp cận (sic) kiên quyết tới thậm chí vài mục đích bất khả hay thậm chí một mục đích tưởng tượng”. Cô phải thực hành việc là một kẻ ngốc, ngu dốt, rỗng tuếch. Và lúc đó, cô sẽ có thể LÀM!

Tôi có sự tin tưởng lớn vào cô và mặc dù cô đang tự dằn vặt, tác phẩm của cô vẫn rất hay. Hãy cố làm ra tác phẩm DỞ- dở nhất theo như cô tưởng tượng, nhưng hãy cứ kệ mẹ nó đấy, và thoải mái thư giãn thôi- cô chả có trách nhiệm đéo gì với thế giới- mà chỉ có trách nhiệm với công việc của mình mà thôi- và nếu vậy, hãy LÀM đi. Đừng nghĩ là tác phẩm của cô phải giống với bất kì ý tưởng hay khẩu vị nào cô tưởng tượng ra trước khi làm nó. Nó có thể là bất cứ điều gì cô muốn. Song nếu cô thấy khi không làm nghệ thuật thì lại sướng hơn, vậy thì ngưng làm luôn. Và đừng trừng phạt bản thân vì điều đó. Tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ nghệ thuật đã ăn sâu vào trong cô đến mức mà cô sẽ cảm thấy nếu không làm thì không có gì sung sướng cả.

Eva Hesse

Dù sao đi nữa, có vẻ là tôi hiểu được điều gì đó trong thái độ của cô bởi chính tôi cũng đã từng thường xuyên trải qua giai đoạn kiểu này. Tôi có một “sự tự phê đớn đau” về tác phẩm của mình và sau đó tìm cách thay đổi mọi điều có thể thay đổi. Điều này không khác gì việc căm ghét tất cả những gì mình đã làm, và tìm cách làm ra điều gì đó  triệt để khác, và hay ho hơn. Có lẽ kiểu quá trình này là cần thiết với tôi ở chỗ nó cứ thúc tôi phải chạy, và chạy, không cho dừng lại. Có lẽ đó là cảm giác rằng mình có thể làm ra điều gì đó tốt hơn đống cứt mà mình đã trót làm ra. Có lẽ cần tới sự thống khổ để có thể hoàn tất những gì ta  làm chăng?. Và có lẽ cảm giác này sẽ kích thích cô làm việc hay ho hơn. Nhưng đúng là sẽ rất đau đớn đấy, tôi biết quá rõ điều này. Tốt hơn hết là nếu cô có sự tự tin thì  cứ làm, làm, và làm mà không nghĩ ngợi cho lắm làm gì.  Cô không thể cứ mặc mẹ “ thế giới” và “NGHỆ THUẬT” cũng như ngưng vuốt ve xoa dịu cái tôi của mình sao? Tôi biết cô ( hay bất kỳ ai) chỉ có thể làm việc rất nhiều và toàn bộ thời gian không làm việc thì lại bận rộn với các suy nghĩ lòng vòng. Thế nhưng, khi làm việc, hay trước khi làm việc cô phải làm rỗng tâm trí và tập trung vào công việc. Sau khi cô xong, thì tác phẩm thế nào sẽ là thế ấy. Một lúc sau nữa, cô có thể thấy tác phẩm này hay hơn tác phẩm kia, nhưng điều quan trọng là cô cũng thấy được hướng đi tiếp. Tôi chắc cô biết tất cả những điều này. Cô cũng cần phải biết là cô không việc gì phải phán xét tác phẩm của mình cả-ngay cả bản thân cô nữa, cô cũng đừng phán xét nó. Nói thế nào nhỉ? Tôi thực sự ngưỡng mộ các tác phẩm của cô và không tài nào hiểu vì sao mà cô lại cứ lấn cấn về chúng? Nhưng cô mới là người có thể thấy ra các tác phẩm sắp tới của mình, còn tôi thì không thể. Cô phải tin vào chính tài năng của mình. Tôi nghĩ cô tin đấy. Nếu vậy, hãy cố gắng làm những việc khủng điên nhất mà cô có thể- hãy tự làm mình sốc đi. Bản thân cô sở hữu sức mạnh để có thể làm bất cứ điều gì.

Tôi muốn xem tác phẩm của cô và sẽ phải chấp nhận chờ đến tháng Tám hay tháng Chín. Tôi đã xem ảnh một số tác phẩm mới của Tom (Doyle- chồng của Eva Hesse, một điêu khắc gia- - chú thích của người dịch) tại nhà Lucy (Lippard- phê bình gia nghệ thuật Mỹ- chú thích của người dịch). Chúng rất ấn tượng- đặc biệt các tác phẩm với hình thức đậm chất tinh xác: các tác phẩm đơn giản. Tôi nghĩ sắp tới anh ấy sẽ gửi nhiều ảnh nữa. Cho tôi biết các cuộc triển lãm và tác phẩm trông ra sao nhé.

Tác phẩm của tôi đã thay đổi sau lần gặp cô và nó tốt hơn nhiều. Tôi sẽ có một triển lãm từ 4-9 tháng Năm tại Daniels Gallery 17E 64yh St (từng là chỗ của Emmerich (Andre, gốc Đức, chủ gallery nổi tiếng thập niên 50s-60s tại New York- chú thích của người dịch ). Tôi mong gặp cô ở đó. Yêu hai vợ chồng cô


Sol


@Như Huy 2013


Để biết thêm về Sol Lewitt, xem tại đây:


Để biết thêm về Eva Hesse, xem tại đây:



(Như Huy dịch nhân dịp Giáng Sinh) | Một số câu nói của mẹ Teresa về Tình yêu thương*




1-Nếu cứ mải xét nét người, thời gian đâu ra mà yêu thương họ?

2- Tôi thấy ra một nghịch lí kì khôi.  Đó là, nếu cứ yêu thương cho đến mức chịu bẽ bàng và thương tổn, thì ngay khi ấy, mọi tổn thương bẽ bàng sẽ tự-dưng-chấm-dứt,  chỉ còn lại duy nhất tình yêu

3- Ai mà chẳng vô lý và vị ngã. Kệ họ nhé
Khi mình tốt thì  bị  cho là có mưu đồ xấu. Vẫn cứ tốt nhé
Khi mình trung thực và thẳng thắn thì hay bị lừa. Vẫn cứ trung thực và thẳng thắn nhé
Khi mình bình yên và hạnh phúc. Họ sẽ ghen tị. Vẫn cứ hạnh phúc nhé
Khi mình thành công, sẽ xuất hiện những người bạn xạo và những kẻ thù thực sự. Vẫn cứ thành công nhé
Điều tốt mình làm cho người hôm nay, ngay ngày mai, họ sẽ quên tiệt. Vẫn cứ làm điều tốt nhé
Thấy không? Nếu nghĩ cho tới, ta sẽ thấy rằng, vấn đề ở đây là giữa ta và Chúa. Nào phải giữa ta và họ

4- Vấn đề không phải là việc ta đã cho đi bao nhiêu, mà là việc ta đã trút bao nhiêu yêu thương vào sự-cho-đi ấy?

5- Không phải bất kì ai cũng có thể tạo nên các kì tích vĩ đại. Nhưng ai cũng có thể trút tình yêu thương lớn lao vào những điều nhỏ bé.

6- Tình yêu thương thực sự không so đo tính đếm. Nó chỉ biết nhẫn-nại-cho-đi

7- Ki-Tô nói yêu thương lẫn nhau. Ngài không bảo phải yêu lấy toàn thế giới.

8- Những gì ta xây dựng hàng năm ròng có thể sụp đổ chỉ trong một đêm. Nhưng vẫn cứ xây nhé.

9- Một trong những tật bệnh ghê sợ nhất, đó là không-có-ý-nghĩa-với-bất-kì-ai

10- Đừng nghĩ rằng tình yêu thương thực sự phải là điều gì đó vô tiền kháng hậu. Những gì chúng ta cần chỉ là:

nhẫn-nại-yêu và đừng-mỏi-mệt.


D(ngh)ịch thơ Szymborska | Ba Chữ Lạ Lùng (The Three Oddest Words)


Chữ mai-sau mới lìa môi
Thanh âm đã chớm khuất vào ngày-xưa

Chữ im-lặng mới vẳng ra
Lặng im mới đó vỡ oà còn đâu

Chữ hư-vô, lúc đặt câu
Tôi bày cả cõi-u-sầu-mênh-mang


©Như Huy 2012

 Nguồn: http://poemsetc.blogspot.com/2010/10/three-oddest-words.html