Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2011

Sơ lược lịch sử nghệ thuật video (video art) (2)

Frank Popper
Chương 3, Nghệ thuật của kỉ nguyên điện tử ( the art of electronic age), Thame and Hudson xuất bản 1993
Như Huy dịch


Các thực hành nghệ thuật Video trong thập kỷ 60, lợi dụng chiều kích thời gian đặc trưng của chất liệu, đã có mối liên hệ rất chặt chẽ với sự phát triển của nghệ thuật môi trường và nghệ thuật vị niệm. Trong thời kỳ này, cùng bầu không khí nồng nặc tư tửơng giải vật chất hóa (materialization) đối với tác phẩm nghệ thuật và của sự từ khước đối với mọi hình thái trao đổi bán mua và lưu giữ nghệ thuật, Video Art đã ra đời, không chỉ như một biểu hiện của sự thích nghi với những khả năng mới mẻ mới được phát hiện bởi các công nghệ thị giác (như xưa kia đã từng xẩy ra với nhiếp ảnh và Cinema), mà còn như những phương tiện sản xuất ra những hình ảnh nguyên gin - được điều phối bởi một mã mỹ học bên trong.


Bruce Nauman, Walking in an exaggerated manner around a perimeter of a square

Chúng ta có thể nhớ lại lời nhận xét của Vittorio Fagone rằng, khái niệm “Video Art” hàm chiếu tới sự sản xuất một cách nguyên gin những tác phẩm được sáng tạo đặc biệt cho truyền hình, đó là: Sự thu ghi, thường xuyên trong thời gian thực, các hành vi, biến cố và các vở trỉnh diễn; Sự kề đặt nhiều cấu trúc Video, các tác phẩm điêu khắc và các tác phẩm môi trường Video trong phạm vi một không gian chung; Sự trộn gộp liên phương tiện các chất liệu hỗn tạp - phim đèn chiếu, phim, các hình ảnh và vật thể tạo hình (nghệ thuật sắp đặt); Và sự hỗn trộn liên phương tiện các sản phẩm truyền hình cùng các kỹ thuật hay các hình thái nghệ thuật khác (nhà hát, vũ đạo …vv).


Tác phẩm video installation của Nam Jun Paik

Thường xuyên người ta cho rằng khái niệm Video Art nên được ứng dụng chỉ trong phạm vi các công việc có tính truyền hình, thế nhưng, trong thực hành, thì khái niệm này lại có trường bao phủ sang cả những khu vực rất phức tạp. Ngày nay, nó ôm vào lòng mọi hình thái sử dụng chất liệu nào thuộc văn cảnh sản xuất nghệ thuật. Trong phạm vi chi phối của Video Art, sự thu ghi lại các màn trình diễn không phải là sự thu ghi mang tính chất lưu trữ tư liệu, mà đây là một dạng tái trình hiện những hành vi được tiến hành trong thời gian. Sự sáng tạo ra các hình ảnh mới, trong rất nhiều trường hợp, qua việc sử dụng các công cụ điện tử phỏng ảo (synthesizers) chứ không tái hiện trực tiếp thiện thực bên ngoài, đã thể hiện một khía cạnh sáng tạo mạnh mẽ khác của Video Art. Tuy nhiên, các tác phẩm Video Art gần đây nhất, lại là những tác phẩm mà trong đó sử dụng cả sự liên nối với các phương tiện khác, để điều giải các nguồn hình ảnh truyền hình khác nhau (là cảm hứng tiên khởi cho các thực hành Video).

Trong các sản phẩm Video, những hình ảnh truyền hình được thể hiện qua vô số dáng vẻ khác nhau; là hình ảnh dạng tiểu sử, là sự khảo sát các chi tiết thị giác trong diễn trình thời gian; là sự kề đặt các hình thái hình học đuợc nới mở rộng; là sự bóp vặn để làm sai khác những hình ảnh có nghĩa; là truyện kể và các phân tích trực thời. Từng phạm trù này, thích hợp với từng mô hình Video riêng biệt, được làm nổi bật lên qua sự can thiệp đặc thù của mỗi nghệ sỹ.

Thu ghi Video chính là cuộc tìm kiếm những hình thái giải vật chất hóa nghệ thuật, là sự tri nhận mang tính xã hội và thị giác về môi trường, là sự định dạng hóa các khả năng tiềm tàng từ khởi thủy, những ảnh hưởng và hình thái từ không gian tự nhiên và bản thân cơ thể trong vai trò nguồn sản xuất và công cụ của ngôn ngữ được hiện hữu hóa. Những sự thu ghi Video đưa vào các cuộn băng một hình ảnh của tình huống nguyên gin, không chỉ mang tính tư liệu, mà còn là một phần của khoảnh khắc sáng tạo, hàm ngụ tới sự mở rộng yếu tố thời gian và thị giác của một hiện tượng được quan sát. Hoàn toàn không ngẫu nhiên khi (trong rất nhiều trường hợp) nghệ sỹ chỉ đạo và thực hiện việc thu ghi chính bản thân mình.

Trong trường hợp của các tác phẩm Điêu khắc Video hay Video Môi trường, chúng ta có thể nhớ lại sự nhấn mạnh của Marshall Mc Luhan về chất lượng của tính đa cảm giác của hình ảnh truyền hình và năng lực biểu lộ “tính hiển nhiên” của nó. Những đặc tính này được làm nổi bật trong các tác phẩm điêu khắc Video, những sản phẩm phức hợp mà trong đó hình ảnh truyền hình được chiếu cùng lúc qua vài màn hình tạo nên một cấu trúc thị giác phức tạp tương tác với môi trường gần gũi xung quanh. Trong các tác phẩm Video Môi trường hay Sắp đặt Video, công chúng được mời gọi để tích cực di chuyển trong không gian tác phẩm (như thể họ đang ở trên một hành trình khám phá) thông qua việc nghệ sỹ đưa ra một loạt đối sánh giữa các điểm nhìn và hình ảnh khác nhau để tấn công vào ngay chính những cách tri nhận theo thói thường của công chúng.


Tác phẩm video installation của Nam Jun Paik

Các tác phẩm Sắp đặt Video và Video Môi trường thường cũng bao gộp cả sự tham gia của người xem và luôn sử dụng rất nhiều phương tiện khác nhau. Phim, slides, các đoạn ghi âm và các vật thể được sử dụng liên kết với nhau, tạo nên một hình ảnh tạo hình đa thể dạng; Mối song tác giữa sự chia rẽ và kề đặt các hình ảnh từ nhiều phương tiện khác nhau đã tạo sinh ra một loạt những hình thái bất hòa tích cực. Các tác phẩm sắp đặt Video gần đây, rõ ràng đang thể hiện một giai đoạn phát triển phong nhiêu nhất của Video Art.

Trong trình diễn Video, các hình ảnh truyền hình từ khu vực truyền thông đại chúng và các hình ảnh Video (Xuất hiện trong khoảng đầu thập kỷ 70), đã gây ra ảnh hưởng sâu sắc tới thế giới nghệ thuật thị giác, kịch nghệ và văn chương. Video đã thành công trong việc trở nên là một thành phần không thể thiếu được trong lĩnh vực nghệ thuật trình diễn, nơi sự chia rẽ giữa nghệ thuật trình diễn và mỹ thuật đã nhoè mờ. Một dạng thực hành thông thường của các nghệ sỹ trình diễn ngày nay, là việc lôi kéo sự chú ý của người xem tới màn ảnh Video, lúc này, xuất hiện như thể một gương soi, một tín hiệu, và trên hết - một cỗ máy thời gian. Hình ảnh truyền hình cũng được xuất hiện trên sâu khấu như thể một điểm hàm chỉ, đối âm, phản chiếu hay thoát ly.
Rất nhiều tác phẩm gần đây bao gộp Video và Computer đã tận dụng công nghệ lập trình và ứng xử với thông tin; Tôi sẽ nói kỹ hơn việc này ở chương sau. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều tác phẩm khác hoàn toàn, không nghì ngờ gì, thuộc vào khu vực thuần Video Art. Các tác phẩm này được tạo nên bởi những nghệ sỹ chỉ thao tác cùng các băng Video thuần túy chứ không đưa các yếu tố đồ họa vi tính, hay các hình ảnh kỹ thuật số vào tác phẩm. Các tác phẩm này cũng có thể chỉ hạn chế trong việc sản xuất ra những băng Video thuần túy, nhưng cũng có thể sẽ là công cụ để sử dụng trong các tác phẩm Video môi trường hay các sắp đặt Video.

Có vô số các ví dụ ngoại hạng minh họa cho những tác phẩm thuộc những xu hướng của Video Art mà chúng ta nói tới trên kia, và các tác phẩm ấy cũng đưa ra cơ hội cho một cuộc khảo sát về sự song tác giữa các yếu tố công nghệ và mỹ học bên trong lòng chúng. Một trong những thành công độc đáo chính là tác phẩm của Nam June Paik, nghệ sỹ và nhạc sỹ Mỹ gốc Hàn, một nghệ sỹ Fluxus, người khai sinh ra Video Art, và hơn hai mươi lăm năm sau ngày khai sinh đó, vẫn tiếp tục lãnh một vai trò thống trội trong nghệ thuật Video Art bằng vô số các tác phẩm điêu khắc Video, Video Môi trường và Sắp đặt Video xuất sắc.
Mặc dù, người ta cũng có thể coi Video Art được ra đời từ một thực hành khác thuộc lĩnh vực truyền hình, như từ các thực nghiệm vào năm 1952 của Ernie Kovac với sự nhiễu sóng của truyền hình chẳng hạn. Thế nhưng , nói chung, hầu hết đều đồng thuận rằng, Paik chính là cha đẻ của Video Art. Tiếp cận với Video khi còn là một nhạc sỹ tiền phong chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi John Cage và Karl Heinz Stockhausen, với tiếng tăm lúc đó còn rất khiêm tốn của mình, Paik đã nhìn thấy trong màn ảnh truyền hình một công cụ hoàn hảo có thể gây shock với các quy phạm cũ của nghệ thuật.

Tác phẩm đầu tiên của ông sử dụng những màn ảnh truyền hình như thể các ready mades (ready made - khái niệm của Duchamp, chỉ những đồ vật làm sẵn sản xuất hàng loạt - được nghệ sỹ dùng cho một mục đích khác- ND ) biến nghĩa (altered ready mades). Còn tác phẩm sau này như The Moon is the Oldest TV hay những tác phẩm khác, ông lại coi màn ảnh truyền hình như một cỗ máy tự hàm chiếu (self - referential) có khả năng tạo sinh hình ảnh từ chính bản thân nó. Các thực nghiệm của ông với sự hồi phản có liên quan chặt chẽ với xu hướng lúc đó trong giới nghệ thuật hướng về tính tiến trình của tác phẩm cũng như sự tìm tòi mở rộng chất liệu.


TV Buhda của Nam Jun Paik


Tác phẩm này đã dẫn tới việc phát triển hệ phỏng ảo mầu sắc (colourizer) hay còn gọi là máy phỏng ảo mầu sắc của Paik - kết quả của sự kết hợp của ông với Shuya Abe. Với khả năng tạo nên hệ mầu dã thú, tác phẩm phỏng ảo của Paik - Abe, cùng một số tác phẩm khác nữa được sáng tạo bởi Stephen Beck, Peter Campus, Bill và Louis Etra, James Seawright, Eric Siegel, Aldo Tambellini, Stan Van Der Beek và Walter Wright đã đồng loạt tạo nên sự chia rẽ về thể loại trong các tác phẩm hình ảnh - tiến trình (image - processed work). Các tác phẩm Điêu khắc Video của Paik như TV Bra for living sculpture (1969), Concerto for Cello and Video Tape (1971) và TV Buddha (1974), cũng như các cuộc trình diễn của ông với Charlotte Moorman, đã đưa hình thái trình diễn Video, điêu khắc Video và sắp đặt Video vào từ kho vựng của thế giới nghệ thuật. Trong khi tác phẩm TV Buddha là một trong những tác phẩm sắp đặt khép kín (closed - circuit installations) nổi tiếng nhất của Paik, tác phẩm Global Grove (1973), tác phẩm mà sau này được sáp nhập lại với tác phẩm TV Garden (1974) của ông, mới là tác phẩm gây tác động mạnh nhất của ông trong thời kỳ này. Từ thời điểm này trở đi, xuất hiện vô số tác phẩm sắp đặt quan trọng khác theo hình thái khép kín hoặc đa màn hình như Image There Are More Stair in the Sky than Chinese on the Earth (1981), Pyramid (1982), Beuys/Voice (1987), One Candle (1989), hoặc tác phẩm sắp đặt tượng đài The Electronic Fairy (1989), bao gồm 200 bộ Video và màn hình được đặt trong căn phòng dành cho tác phẩm La Fee Electricite của Dufy tại Musée d’ Art Moderne de la Ville de Paris (Bảo tàng nghệ thuật hiện đại thành phồ Paris) nhân dịp kỷ niệm 200 năm Cách mạng Pháp.


Nam June Paik và Charlotte moorman trình diễn


(còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét