Thứ Tư, 23 tháng 11, 2011

NGHỆ THUẬT KHÔNG NGỪNG CHUYỂN HOÁ (1)

Ray Bethers

Như Huy dịch




Mọi phong cách nghệ thuật đều mang tính truyền thống ở chỗ chúng hoàn tòan không phải từ trên giời rơi xuống, mà được kế thừa từ nghệ thuật của quá khứ. Nhưng do các nghệ sỹ luôn đi trước thời đại, hiếm khi họ được coi trọng ngay trong thời họ sống.

Cuốn sách này là một nỗ lực thu hẹp khoảng cách nhằm giúp nhiều người có thể hiểu các tác phẩm hiện tại thông qua các tác phẩm trong quá khứ. Bởi dẫu “ Nghệ thuật luôn biến đổi ”, nó lại chưa bao giờ như thế, mà chỉ có vẻ như thế mà thôi. Đó là lý do tại sao những họa sỹ bị thế hệ trước coi là lũ điên, lại thường xuyên được thế hệ sau ngưỡng mộ như những thiên tài.

Như vậy, nội dung của cuốn sách này là tìm cách lý giải vài nét “ kỳ quái “ của hội họa đương đại bằng cách khảo dò trở lại nguồn gốc cũng như hành trình phát triển của nó. Không phải hội họa trở nên “ hay hơn “, mà chính là những nhu cầu thay đổi đã tạo ra sự biến đổi.

Bởi hội họa là vô ngôn, thế nên, trong nỗ lực chỉ ra ra các đừơng dây mối rợ (của các phong cách và thời kỳ - ND), tôi đã phải dùng đến cùng lúc cả ngôn từ và hình ảnh. Để tạo ra tính liền mạch, không có cách nào khác, tôi đã phải vẽ nhiều dị bản cho một đối tượng duy nhất, mỗi dị bản ấy minh họa cho một quan điểm, phong cách hay thời kỳ.



Cũng thông qua việc chỉ ra việc một giai đoạn hội họa này phái sinh từ một giai đọan hội họa khác như thế nào, tôi hy vọng chứng minh được rằng không bao giờ có một trường phái hay phong cách hội họa nào là câu trả lời tối hậu, mà cho tới nay, tất cả chỉ là một chuỗi tiếp nối mà thôi.



Ray Bethers

-----------------------




“ Cuộc đời của một bức tranh cũng y như của một tạo vật sống vậy, ba chìm bẩy nổi do những tác động của đời sống thừơng nhật. Điều này cũng tự nhiên thôi, vì lẽ một bức tranh chỉ tồn tại thông qua kẻ xem nó"


Picasso

TÂM NHÃN CỦA CHÚNG TA



Tất cả chúng ta đều từng là những nghệ sỹ bẩm sinh vui chơi trong thế giởi tưởng tượng muôn hình muôn vẻ. Do mọi trẻ thơ, một cách tự nhiên, luôn thể hiện bản thân qua các hình thái nghệ thuật, thế nên, chúng ta ai ai cũng đã là diễn viên, điêu khắc gia, họa sỹ và nhạc sỹ - cho tới tuổi lên 7.



Thế nhưng, tất cả thay đổi khi ta lớn, bởi bài học tồn tại trong một thế giới của các hiện thực cụ thể dậy chúng ta rằng, những gì thuộc tinh thần phải bị loại xuống hàng thứ yếu trước “ thực tế cuộc đời “

Thế nhưng, liệu chúng ta có bị già cỗi đi thật không ? chừng nào chúng ta còn duy trì được hứng thú với nghệ thuật ? Adous Huxley hoàn toàn không nghĩ thế, bởi ông từng nói: “ Ở nơi đâu khả năng nhậy cảm với nghệ thuật còn tồn tại, ở nơi đó, phần lớn những con người trưởng thành sẽ thoát khỏi thân phận già cỗi để rồi nhi hóa trở lại “

. Tại sao lại thế?, ấy là vì khi chúng ta lớn, chúng ta học càng ngày càng nhiều, thế nhưng càng học, dừơng như chúng ta lại càng ngày càng bớt tin vào các cảm xúc và bản năng tự nhiên của chúng ta. Thật ra thì những xúc cảm tự nhiên của chúng ta đã trở thành thứ yếu trước lý tính, và đây chính là cội nguồn rắc rối, bởi với nghệ thuật, lý tính và cảm xúc không chấp nhận lẫn nhau.

Tuy thế, với mỗi chúng ta, lý tính có một khuôn mặt khác. Về bản chất, ta chỉ “ nhìn sự vật “ theo cách của ta, và lẽ dĩ nhiên, sự nhìn của mọi người hòan toàn khác nhau. Bởi vậy với các bức tranh, cũng như với mọi sự vật khác, những gì ta nhìn gần như không quan trọng bằng việc cảm xúc của ta như thế nào khi nhìn chúng.



Như thế, tất cả chúng ta sống trong một thế giới tự giới hạn, do đó, cô đơn, và bằng cách này hay cách khác, chúng ta đều muốn thóat khỏi thế giới ấy. Tất cả chúng ta cảm thấy nhu cầu giao tiếp và khát vọng vượt thoát khỏi chính cái thế giới mà chúng ta kiến tạo. Và đây cũng chính là những gì cuốn sách này muốn đề cập, làm thế nào để đạt tới một cuộc “ giải trừ tự nguyện thói hòai nghi”, là khúc khải hòan của cảm xúc trước lý tính, cách duy nhất để lạc vào thế giới huyền ảo của nghệ thuật. Bởi lẽ, như Marcel Proust nói: “ Nhờ có nghệ thuật, thay vì chỉ thấy có 1 thế giới duy nhất của chính chúng ta, ta có thể thấy nó qua muôn vàn hình thái, theo vô vàn cách của vô vàn nghệ sỹ độc đáo…"



TRƯỚC TIÊN, XÉT LẠI BẢN THÂN







Đây là hình một cái lò sưởi. Nhớ rằng bạn chỉ nhìn nó bằng tâm nhãn của bạn thôi, vậy trông nó ra sao trước mắt bạn?

Hãy tưởng tượng nhé, giả dụ như cả đời bạn sống ở vùng nhiệt đời, cái lò sưởi với bạn hẳn sẽ là một nỗi tò mò. Thế nhưng nếu bạn lại là cư dân ở vùng khí hậu lạnh chẳng hạn, cái lò sưởi sẽ có ý nghĩa khác hẳn. Song, ở cả hai thái độ này, sự nhìn đã bị hạn chế và điều kiện hóa nghiêm trọng bởi ký ức ( của bạn ) về lò sưởi và chính những chức năng của nó trong thế giới thực. Tuy nhiên, vẫn có cách nhìn khác mang tính thuần túy của một trải nghiệm thị giác. Được nhìn theo cách này, cái lò sưởi đã không còn chỉ là cái lò sưởi nữa; mà còn là yếu tố của một bức tranh



CÁC HỌA SỸ KHÔNG HỀ NHÌN KHÁC VỚI BẠN



Nếu 3 họa sỹ, một họa sỹ truyền thống Nhật Bản, một họa sỹ Ấn tượng Pháp, và một họa sỹ Lập thể Tây ban nha cùng chuẩn bị mua một cái lò sưởi, trong mắt họ, cái lò sưởi ấy sẽ hiện ra cùng một vẻ. Thế nhưng khi phải vẽ ba bức tranh từ cái lò sưởi duy nhất ấy, sự khác biệt sẽ xẩy ra, không phải từ cái lò sưởi, mà từ ba kiểu vẽ riêng của họ.




NẾU BẠN XEM MỘT BỨC TRANH MÀ CHẲNG HIỂU GÌ



Nguyên nhân có lẽ bởi:

- Bức tranh tự thân vô giá trị, chẳng gợi gọi gì cả

- Có lẽ bạn đang tìm kiếm điều gì đó hòan tòan không hề có trong bức tranh ấy

- Tâm trạng như thế nào đó tại khoảnh khắc ấy của bạn có lẽ đã ngăn trở cảm nhận của bạn đối với một bức tranh - mà có khi sau này bạn lại hiểu dễ dàng

- “ Mô hình tâm lý” của nghệ sỹ có lẽ quá xa lạ với bản tính của bạn đến mức bạn sẽ không bao giờ chịu nổi bất kỳ tác phẩm nào của gã

- Có lẽ bạn đã, một cách vô thức, cảm thấy bị dội trước một bức tranh có phong cách mà bạn không hiểu, đặc biệt là khi phong cách ấy quá mới mẻ với bạn

- Chủ đề ( hay sự thiếu vắng nó ) có lẽ đã làm bạn khó chịu, và bạn từ khước bức tranh tắp lự mà không thèm quan tâm xa hơn

- Hay cũng có thể, nói chung, bạn là kẻ “ mù họa” ( tone-deaf ), chỉ có hứng thú với các loại hình ( nghệ thuật ) khác, và hòan toàn chưa bao giờ cảm thấy tí tẹo nhu cầu nào về tranh pháo cả



BỨC TRANH NHƯ THỂ MỘT NGHỊCH LÝ



Rất nhiều vấn đề về tranh pháo có vẻ nghịch lý. Ví dụ, mọi bức tranh, trong vai trò Là một nghệ phẩm,đều tự thân hoàn tất, thế nhưng nó cũng lại vẫn chưa thể hoàn tất hẳn nếu thiếu đi sự cảm hiểu và tham dự của bạn. Nó đạt tới tối đa hiệu ứng với tối thiểu phương tiện. Nó chứa vô lượng trong nhỏ nhoi và nhỏ nhoi trong vô lượng.

Nó cũng, bằng ngay chính bản thân, trả lời được vô vàn câu hỏi mà không phải giải bầy chi nhiều. Cũng có thể coi hội họa tồn tại trong một thế cân bằng động ( unstable equilibrium ), có nghĩa là nó có thể gợi chuyển động hoặc tạo xúc cảm về không gian ở những nơi không có một chuyển động hay không gian thực nào tồn tại nổi.



TÊN TRANH KHÔNG QUAN TRỌNG MẤY



Các họa sỹ hiếm khi đặt tên cho tác phẩm. Tiêu đề tranh thừơng là do các bảo tàng hay các nhà đại diện đặt ra phục vụ cho mục đích phân lọai khi in vựng tập. Thật ra, hầu hết họa sỹ đều ghét đặt tên tranh và thích để bức tranh tự nói về nó. Bởi những lẽ đó, cho nên đã xuất hiện vô số các tiêu đề tranh ngớ ngẩn, như kiểu: “ Tĩnh vật với hoa”, vv và vv.



CHẢ CÓ LỊCH SỬ NGHỆ THUẬT NÀO CẢ



Để thưởng thức một bức tranh, hoàn toàn không cần biết gì về việc nó đã được vẽ khi nào, bởi đời sống của một nghệ phẩm chỉ luôn phụ thuộc vào ( sự gìn giữ của ) thế hệ tiếp sau. Nếu không thế, có khả năng đó hòan tòan không là một nghệ phẩm.



VỀ CHÂN DUNG THÌ SAO ?





Không kể tới dạng “ chân dung sơn dầu “ thông thường được vẽ theo kiểu quen tay, luôn chẳng hơn gì một màn trình diễn kỹ thuật khéo léo, một bức chân dung rất có thể trở nên một nghệ phẩm - mang chứa mối quan tâm nào đó không chỉ với người mẫu, họ hàng hay bạn bè nghệ sỹ. Do không nghệ phẩm nào phải lụy vào sự giống của nó với bất kỳ điều gì ngoài nó, ta có thể khẳng định rằng, việc một bức chân dung có thể trở nên một nghệ phẩm không liên quan gì tới việc nó bắt buộc phải giống với người mẫu.





chân dung, tranh Picasso

HỌA SỸ LÀ MỘT NÒI KHÁC



Trong quá khứ, hàng trăm ngàn người đã đi học vẽ, thế nhưng tới giờ, chỉ có không quá 100 nghệ sỹ vĩ đại. Bởi mặc dù thiên tài vẫn cần học, thế nhưng, không thể học để thành thiên tài. Với thiên tài, không thể lấy cần cù bù thông minh, bởi nếu không thì bất cứ gã nào có khả năng dùng nửa triệu que diêm xếp thành một cái bàn cũng sẽ trở nên Michelangelo hay Rembrandt lập tức.

Hội họa không phải là một nghề kiếm sống. Họa sỹ vẽ bởi họ cần vẽ. Họ thực sự không mô phỏng lại cuộc đời, mà tự sáng tạo ra một thế giới hoàn tòan mới cho chính họ. Ozenfant từng nói” Bức tranh chính là thế giới được thu nhỏ lại theo kích cỡ con người".

Họa sỹ cũng không phải là các nhà nhân bản chủ nghĩa, cho dù bởi sao đó mà họ trở nên như thế dẫu chẳng muốn. Họ là như vậy chỉ bởi vì cách họ rung động, tình cở thế nào, lại trùng khớp với những khát vọng của con người. Thế nhưng điều này không phải để nói rằng họa sỹ không muốn được xưng tụng, mà chỉ là, sự vinh danh ấy phải đúng với họ, và không tàn phá đi phẩm cách trung chính nghệ thuật của họ.

Việc một nghệ sỹ tạo ra được một nghệ phẩm không đồng nghĩa với việc hắn có thể sao đó, diễn giải nó, bởi bức tranh sở hữu khả năng tự lý giải chính mình. Tuy thế, việc nghệ sỹ không thể diễn giải bức tranh sau khi đã vẽ xong cũng lại không đồng nghĩa với việc hắn không ý thức trọn vẹn công việc của bản thân, bởi như Albert Gleizes đã nói, :” Chả vì cớ gì nghệ sỹ lại dốt cả “. Hầu hết nghệ sỹ đều có kiến thức rộng về hội họa, thế nhưng họ cũng sở hữu một sức mạnh kỳ bí để ( vào một lúc nào đó ) đắm chìm nơi cõi tiềm thức của bản thân, và rồi khởi tạo nên các hình hài cụ thể từ những rung động mơ hồ.



Roualt từng diễn tả trải nghiệm của bản thân như sau: “ Sự thật là tôi vẽ bằng đôi mắt mở to cả ngày lẫn đêm ngó vào thế giới thực, song nhờ việc thỉnh thỏang khép mắt, có lẽ cái nhìn của tôi đã được khai mở tốt hơn và qua đó, giúp cho bố cục ( của bức tranh) được tổ chức hợp lý ”.


Tranh của Rouault



TIỂU SỬ CỦA MỘT NGHỆ SỸ CHẢ NÓI LÊN ĐIỀU GÌ

Tác phẩm và đời riêng của nghệ sỹ thường khác xa nhau, và một nghiên cứu về các sự kiện trong đời nghệ sỹ sẽ có chút it công dụng mà thôi, khi nó chỉ có thể cho biết làm thế nào và tại sao hắn lại đã vẽ như thế. Một họa sỹ, cùng lúc, hầu như luôn sống hai cuộc đời, một trong thế giới thực, và một trong thê giới tưởng tượng sáng tạo của bản thân.



HỌA SỸ VÀ THIÊN NHIÊN



Vì nghệ thuật không sinh ra từ thiên nhiên, tác phẩm không trở nên vĩ đại vì nó được vẽ từ cái gì, mà vì ai là người vẽ nó. Có lẽ mệnh đề; “ được vẽ từ thiên nhiên “ (painted from Nature ) chỉ được sử dụng để cảm thông cho một bức tranh xòang hơn là để khoe khoang. Song, sự thật là đã có rất nhiều nghệ sỹ “tìm về thiên nhiên”, không phải để bắt chước, mà để sử dụng nó như một kho tàng miên viễn của các hình thể mới, giúp họ không bị lặp lại bản thân.

Đề tài của hầu hết mọi họa sỹ chi là điểm khời đầu cho họ mà thôi, và lẽ dĩ nhiên, nhiều bức tranh hiện đại thậm chí đến đề tài cũng chả có. Dẫn lời Cézanne, “ bức tranh không phải nô lệ của đề tài, nó là nỗ lực kiếm tìm sự hài hòa của vô số quan hệ “. Picasso lại tiếp lời theo kiểu khác;” Thiên nhiên và nghệ thuật là hai thứ riêng biệt, không thể nào giống nhau được “



VỀ CÁC PHÊ BÌNH GIA THÌ SAO ?



Ngôn từ không thể diễn tả các bức tranh hoặc những rung động khả dĩ sinh ra từ chúng. Các nhà phê bình nghệ thuật dĩ nhiên là phải dùng đến ngôn từ, song chúng ta nên nhớ là họ cũng xem (tranh-ND) bằng tâm nhãn y như chúng ta vậy. Tuy thế, các phê bình gia cũng có thể trở nên khả dụng vào lúc họ trình bầy quan điểm có suy xét của họ về công việc của nghệ sỹ, như là; một họa sỹ đã thành công tới đâu với con đừơng mà anh ta chọn. Song bởi nhiều phán xét này nọ của nhiều phê bình gia trong quá khứ đã bị thời gian chứng minh là sai lầm tuyệt đối, thế cho nên, giờ đây, một số họ đã trở nên nhát tay, và tôn vinh bất kỳ thứ gì trông có vẻ lạ lẫm.

Nhưng dù các phê bình gia có nói gì đi chăng nữa, các bức tranh ra đời để được yêu mến, chứ không phải bị phán xử, hay thậm chí, đánh giá.



CÁC NHÀ MÔI GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ GIÁ TRANH



Một bức phong cảnh của Gauguin mới đây (thập niện 50 – 60- ND) đã được bán tới 300.000USD. Sự kiện này quá tương phản với những gì Gauguin viết để mô tả về cuộc sống của ông tại Tahiti. “ Hàng ngày, mỗi khi phải nhá một mẩu bánh khô kèm theo một ly nước lã, tôi đã luôn phải tự đánh lừa mình rằng đó là một súc Beefsteak”.

Một câu chuyện khác, tương tự cho cả Cézanne lẫn Vangoh. Vào khoảng năm 1870, “ Bố” Tanguy [ “Bố “ ( Père ) là tên các họa sỹ gọi thân mật ông Tanguy, người có 1 gallery nhỏ và rất hay bán chịu họa phẩm cho các họa sỹ lang thang thời đó –ND ] có 1 cửa hàng nhỏ ở khu Montmatre, là nơi duy nhất trưng bầy tranh của Cézanne. Các bức tranh ấy được dựng tựa vào tường theo các vị trí tùy vào kích cỡ của chúng, và cũng chính các kích cỡ ấy là đơn vị để tính giá bán cho chúng.

Tanguy cũng từng mua tranh của Van Goh, nhưng không bán lại được một bức nào. Ấy vậy mà ngày nay, tranh của cả Cézanne và Van Goh được hét giá trên trời, thậm chí tới hàng trăm ngàn USD lận. Tại sao lại thế ?. Thật ra là, các bức tranh thì vẫn như cũ mà thôi, chỉ do thái độ của chúng ta đối với chúng đã hoàn toàn thay đổi. Giờ đây, những bức tranh này đã trở thành tài chính mạnh ( high finance), một khỏan đầu tư như kiểu cổ phiếu hay công trái.




Chân dung bố Tanguy, Van Gogh vẽ



Như vậy, giá cả thừơng xuyên bị đội lên, không hề bởi 1 nhà sưu tập nào đó sẵn sàng trả giá thật cao để mua một bức tranh mà nhiều người khác cũng muốn mua.

Thêm vào đó, nhiều tác phẩm xoàng của các nghệ sỹ giỏi đã được thu gom từ mớ đồ thải trong xưởng vẽ sau cái chết của một họa sỹ, khiến cho giá của những thứ thừơng chỉ là các thử nghiệm mơ hồ hoặc những thất bại đó ( của họa sỹ - ND ) trở nên rất trời ơi đất hỡi. Song, thậm chí điều này cũng có chút giá trị, bởi chính qua những bức tranh bỏ đi ấy, mà người ta có thể tìm hiểu sự phát triển ( nghề nghiệp ) của một họa sỹ.

Nói chung không thể cho rằng các nhà môi giới nghệ thuật hiến mình vô tư vì nghệ thuật, song, số ít người có một khả năng nhìn xa trông rộng khi từng đề nghị những trợ giúp về tinh thần và vật chất cho nhiều nghệ sỹ rất lâu trước khi tác phẩm của những nghệ sỹ này trở nên nổi tiếng. Và vì thế, tên của Durand – Ruel đã gắn với các nhà ấn tượng (impressionists ), của Vollard với Cézanne, của Berthe Weil với các nhà Dã thú (Fauves ), và của Kahnweiler với các nhà Lập thể ( Cubists ).

Cũng y như những nghệ sỹ mà họ đặt lòng tin vào vậy, tất cả những người này đều có tính sáng tạo theo kiểu cách riêng của họ.



QUAN ĐIỂM HÀN LÂM



Chữ “ Hàn lâm” , trong một cảm thức nào đó có nghĩa là : “ điều gì đó khả giáo“, hoặc “sự lặp lại quá khứ không thêm không bớt” . Sự thật là đã có những phép tắc nền tảng chung cho mọi bức tranh, song chúng không hề mang tính hàn lâm hoặc bị giới hạn, bởi luôn có vô số cách khác nhau để ứng dụng chúng. Alexander Lindsey từng tổng kết điều này khi ông nói” …Một bố cục từ khứớc hoàn tóan sự phá cách là một bố cục chết, song một bố cục phá cách triệt để thì lại khó hiểu “



HỘI HỌA KHÁC VỚI CÁC DẠNG NGHỆ THUẬT KHÁC NHƯ THẾ NÀO



Điêu khắc





Điêu khắc (giống như hội họa), là nghệ thuật (của) không gian (space-art), song điêu khắc tồn tại trong khối thực và không gian thực. Nó cũng khác với hội họa ở chỗ nó thay đổi (hình dạng) tùy theo điểm nhìn của người xem.

Vào hồi đầu thế kỷ (TK 20), một chiều mới của điêu khắc được phát hiện và đã thách đố một số lượng lớn lao công chúng- những người thắc mắc: “ Tại sao lại đi khoét lỗ vào các bức tượng cơ chứ ? “

Trước kia, điêu khắc thiên về khối lồi, làm cho các dạng thể nhô vào không gian, thế nhưng trong tác phẩm của Archipenko, Moore, Zadkine hay một số người khác, các dạng thể rỗng và lõm đã xuất hiện để bù trợ cho nhau. Thật ra thì, lỗ rỗng trong bức tượng chỉ đơn thuần là nơi không gian thẩm nhập vào khối. Hai quan niệm này được trình bầy qua hai hình ảnh kèm theo ở trên. Trong khi “ không gian rỗng “ hòan toàn mới mẻ với điêu khắc, nó lại chính là lõi cốt của các thiết kế kiến trúc.


Tượng của Henry Moore

Tượng của Rodin



Viết lách



Viết lách là nghệ thuật (của) thời gian (Time-art) ở chỗ ngôn từ luôn phải kế tiếp theo nhau trong một dàn xếp tuyến tính suốt một khoảng thời gian thực. Chính vì thế, nó đòi hỏi người đọc khi đọc luôn phải nhớ đọan trước, một việc không cần thiết khi xem tranh. Viết lách, về bản chất, là kể 1 câu chuyện, do đó ta có thể để dành cao trào cho tới tận hồi kết. Trong khi đó, nếu dùng tranh để kể chuyện, câu chuyện sẽ ngay lập tức nhạt phèo bởi với tranh vẽ, tất cả đều được “bầy ra” cùng lúc, chả có gì giấu diếm.



Âm nhạc



Âm nhạc, cũng như viết lách, là nghệ thuật (của) thời gian, ở đó các nốt cũng phải kế tiếp nhau trong một khoảng thời gian tuyến tính. Trí nhớ cũng được đòi hỏi khi nghe nhạc. Tuy nhiên, các chùm hợp âm thì lại vang lên đồng thời và (giống như tranh vẽ) được cảm nhận trong tổng thể.


Múa



Múa là một nghệ thuật bao gồm cả không gian, thời gian và cũng đòi hỏi đến trí nhớ



Kịch nghệ



Các vở kịch diễn ra theo thời gian thực trong một không gian giới hạn. Mái vòm mặt tiền sân khấu cũng tương tự như một khung tranh ở chỗ nó gom lại sự chú ý (của khán giả), và cách ly màn diễn khỏi môi trường bên ngòai.




(còn tiếp)

phần 2
Phần 3

1 nhận xét:

  1. "Nhưng do các nghệ sỹ luôn đi trước thời đại, hiếm khi họ được coi trọng ngay trong thời họ sống"
    Đọc đến câu đó thì em đã tìm đc câu trả lời cơ bản cho thắc mắc mà ai(chí ít là bạn bè xung quanh em) cũng gặp phải khi nhìn nhận về nghệ sỹ, tại sao mấy ổng phải đến khi chết rồi thì tác phẩm mới đc đánh giá cao.
    đc anh tháo gỡ thắc mắc mà suốt lâu nay em k0 hiểu nên dù mới đọc đoạn đầu mà em đã nổi máu muốn kòm rồi.
    Thôi, em đọc tiếp đây. ^.^

    Trả lờiXóa